Điều trị ung thư tuyến tiền liệt
Ung thư tuyến tiền liệt là nguyên nhân gây tử vong do ung thư phổ biến thứ hai ở nam giới. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, ước tính sẽ có khoảng 288,300 trường hợp mới được chẩn đoán vào năm 2023. Nguy cơ phát triển ung thư tuyến tiền liệt tăng đáng kể sau tuổi 65.
Ung thư tuyến tiền liệt là gì
Tuyến tiền liệt chỉ có ở nam giới, với kích thước bằng quả óc chó, nằm ngay dưới bàng quang và phía trước trực tràng. Niệu đạo (ống dẫn nước tiểu từ bàng quang) chạy qua tuyến tiền liệt. Vai trò của tuyến tiền liệt là sản xuất ra một phần chất lỏng của tinh dịch (chất lỏng chứa tinh trùng).
Ung thư tuyến tiền liệt thường phát triển chậm. Có nhiều bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt sống trên 5 năm kể từ khi chẩn đoán. Trên thực tế, gần 90% nam giới bị bệnh ung thư tuyến tiền liệt sống được ít nhất 5 năm và 63% sống được hơn 10 năm. Nếu ung thư được phát hiện trước khi lan rộng tới các cơ quan khác, tỷ lệ sống sót tương đối sau 5 năm là 100%. Tuy nhiên, nếu ung thư đã di căn xa, tỷ lệ sống sót sau 5 năm giảm xuống còn 31%.
Nguyên nhân gây ung thư tuyến tiền liệt
Các nhà khoa học đã ước tính các yếu tố về lối sống chiếm khoảng 75% các trường hợp ung thư tuyến tiền liệt tiến triển. Trong tất cả các yếu tố môi trường, cách ăn uống dường như có ảnh hưởng lớn nhất. Giống như ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt đặc biệt nhạy cảm với các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ hormone.
Mối lo ngại rằng việc thắt ống dẫn tinh có thể làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt xuất phát từ kết quả trái ngược nhau của nhiều nghiên cứu.
Các nghiên cứu gây tranh cãi được công bố vào năm 1993 báo cáo rằng những người đàn ông trải qua phẫu thuật thắt ống dẫn tinh tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt với tỷ lệ rất nhỏ – 1.5%. Một nghiên cứu lớn khác so sánh 753 nam giới bị bệnh ung thư tuyến tiền liệt với 703 nam giới không bị bệnh. Sau khi hiệu chỉnh theo độ tuổi, chủng tộc (người Mỹ gốc Phi có nguy cơ cao gấp đôi người da trắng) và tiền sử gia đình bị bệnh, họ phát hiện ra rằng trong số những người bị bệnh ung thư tuyến tiền liệt có 39.4% đã thắt ống dẫn tinh so với 37.7% những người không bị ung thư. Sự khác biệt nhỏ như vậy cho thấy có thể không có mối liên quan trực tiếp giữa thắt ống dẫn tinh với ung thư tuyến tiền liệt.
Các kết quả gần đây hơn từ các nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu lớn không chứng minh mối liên quan giữa thắt ống dẫn tinh với tỷ lệ bị ung thư tuyến tiền liệt hoặc tỷ lệ tử vong do ung thư tuyến tiền liệt.
Ai có nguy cơ bị bệnh
Người càng lớn tuổi càng có nhiều khả năng bị ung thư tuyến tiền liệt. Mặc dù chỉ có 1/10,000 người dưới 40 tuổi được chẩn đoán, nhưng tỷ lệ này lên tới 1/38 ở độ tuổi từ 40 – 59 và 1/14 ở độ tuổi từ 60 – 69. Phần lớn các bệnh ung thư tuyến tiền liệt được chẩn đoán ở nam giới trên 65 tuổi.
Dân tộc và di truyền cũng là những yếu tố quan trọng. Đàn ông Mỹ gốc Phi có nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt cao hơn 61% so với đàn ông da trắng và có nguy cơ tử vong vì ung thư tuyến tiền liệt cao gấp 2.5 lần. Những người đàn ông có cha, anh trai hoặc con trai có tiền sử ung thư tuyến tiền liệt có nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt cao gấp 2 lần và những người đàn ông có từ hai người thân trở lên bị bệnh có nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt cao gấp gần 4 bốn lần. Nguy cơ thậm chí còn lớn hơn nếu các thành viên trong gia đình bị bệnh khi còn trẻ, và nguy cơ ung thư cao nhất là ở nam giới có thành viên trong gia đình bị ung thư tuyến tiền liệt trước 60 tuổi.
Mặc dù di truyền chắc chắn có một số ảnh hưởng nhưng cách ăn uống và lối sống cũng đóng một vai trò nhất định. Ăn uống lành mạnh có thể giúp giảm nguy cơ phát triển, giảm khả năng tái phát hoặc làm chậm sự phát triển của ung thư tuyến tiền liệt
Triệu chứng
- Thường xuyên muốn đi tiểu, đặc biệt là vào ban đêm.
- Khó bắt đầu đi tiểu hoặc khó nhịn tiểu.
- Tiểu yếu hoặc bị gián đoạn.
- Tiểu đau buốt.
- Rối loạn cương dương.
- Đau khi xuất tinh.
- Nước tiểu hoặc tinh dịch có máu.
- Đau dai dẳng, tái đi tái lại hoặc co cứng ở thắt lưng, hông hoặc đầu trên xương đùi.
Có các xét nghiệm sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt hay không?
Mặc dù kiểm tra mức PSA [kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt] không phải là xét nghiệm sàng lọc lý tưởng, nhưng nhiều trường hợp ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện nhờ xét nghiệm máu định kỳ có mức PSA tăng cao. Ngoài ra, thăm trực tràng có thể giúp phát hiện những bất thường trong cấu trúc tuyến tiền liệt báo hiệu khả năng bệnh ung thư. Trong cả hai tình huống, bác sĩ sẽ đề nghị sinh thiết để hoàn tất chẩn đoán.
Sinh thiết
Trong quá trình sinh thiết, kim được đưa qua trực tràng vào tuyến tiền liệt để lấy những mẫu mô nhỏ. Quy trình sinh thiết có thể gây ra một số khó chịu hoặc đau đớn, nhưng chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, và thường có thể được thực hiện ngoại trú.
Phân độ Gleason và Điểm Gleason
Tế bào ung thư có hình dạng khác biệt và mức độ khác biệt so với tế bào bình thường là yếu tố quyết định độ ác tính ung thư. Các tế bào khối u được phân loại “độ thấp” trông giống như các tế bào bình thường và các tế bào khối u “độ cao” trông khác biệt rõ rệt.
Hệ thống phân loại Gleason tính đến các sự khác nhau giữa các tế bào khối u tuyến tiền liệt có hình dạng thay đổi so với các tế bào bình thường. Độ 1 đặc trưng cho các tế bào gần như bình thường và độ 5 đại diện cho các tế bào hoàn toàn khác các tế bào tuyến tiền liệt bình thường. Hầu hết các bệnh ung thư tuyến tiền liệt đều chứa các tế bào ở các cấp độ khác nhau. Sau khi kiểm tra các tế bào, nhà giải phẫu bệnh xem xét mẫu sinh thiết để xác định độ Gleason cho hai hình ảnh xuất hiện nhiều nhất. Cộng hai điểm với nhau sẽ tính được điểm Gleason.
Điểm Gleason thường dự đoán mức độ trầm trọng và tiến triển của bệnh. Điểm Gleason càng cao thì tế bào càng ít hoạt động giống tế bào bình thường, và ung thư càng có nhiều khả năng di căn. Hiện tại, điểm thấp nhất được gán cho mẫu khối u là độ 3. Cấp độ dưới 3 cho thấy các tế bào bình thường đến gần bình thường. Khi cộng hai loại tế bào phổ biến nhất, điểm Gleason 6 được xem là ung thư độ thấp, 7 là độ trung bình và điểm từ 8 đến 10 được phân loại là ung thư độ cao.
Giai đoạn bệnh
Giai đoạn của bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Ung thư tuyến tiền liệt khu trú khi u chỉ ở tuyến tiền liệt. Ung thư tuyến tiền liệt tiến triển tại vùng là khi phần lớn ung thư giới hạn ở tuyến tiền liệt, và một phần đã xâm lấn các mô lân cận. Khi bệnh di căn, ung thư tuyến tiền liệt đã phát triển ra bên ngoài tuyến tiền liệt cùng các mô lân cận, có thể di căn đến các cơ quan ở xa hơn.
Có nhiều xét nghiệm được dùng để chẩn đoán giai đoạn bệnh. Ung thư tuyến tiền liệt tiến triển tại vùng thường được chẩn đoán thông qua chụp CT, MRI hoặc chụp X-quang hoặc các xét nghiệm chuyên biệt như xạ hình xương.
Bệnh di căn cũng có thể được phát hiện thông qua các chẩn đoán hình ảnh và đôi khi có thể tìm thấy di căn các hạch bạch huyết, vì ung thư trước khi di căn xa thường đi qua hệ bạch huyết. Các hạch bạch huyết có thể được lấy ra bằng sinh thiết hoặc phẫu thuật để tìm kiếm kỹ hơn sự hiện diện của các tế bào ung thư.
Phương pháp điều trị thường quy cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt
Không có phương pháp điều trị thường quy và chính xác nào cho ung thư tuyến tiền liệt. Các lựa chọn được cân nhắc theo mức độ và giai đoạn của bệnh cũng như tuổi bệnh nhân. Trong một số trường hợp, cách điều trị tốt nhất là không can thiệp gì, vì bệnh có thể không bao giờ phát triển ra ngoài tuyến tiền liệt. Việc tham vấn với bác sĩ tiết niệu, bác sĩ xạ trị và bác sĩ ung thư nội khoa sẽ đưa ra đánh giá tốt nhất về các phương pháp điều trị hiện có với kết cục có thể xảy ra.
Bác sĩ Weil khuyên dùng phương pháp điều trị nào cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt?
1. Khuyến nghị thay đổi lối sống
- Thể dục. Tập thể dục nhịp điệu thường xuyên có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt.
- Thường xuyên tầm soát ung thư tuyến tiền liệt. Thăm trực tràng có thể giúp phát hiện sớm các vấn đề về tuyến tiền liệt. Ngoài ra, xét nghiệm PSA, dấu ấn ung thư tuyến tiền liệt, trong máu. Xét nghiệm này không được xem là chẩn đoán xác định và lợi ích của việc xét nghiệm mức PSA để phát hiện ung thư hoặc theo dõi những thay đổi ở tuyến tiền liệt nên được thảo luận với bác sĩ.
2. Dinh dưỡng và chất bổ sung
- Uống vitamin tổng hợp bao gồm vitamin D và chất chống oxy hóa, đặc biệt là selenium.
- Ăn ít hoặc không ăn thịt đỏ và chất béo bão hòa. Ăn nhiều thịt đỏ và chất béo bão hòa có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt.
- Ăn ít sản phẩm từ sữa hơn. Một nghiên cứu gần đây cho thấy mối liên hệ giữa sự hấp thụ lượng lớn calcium từ các sản phẩm sữa với bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Nếu bạn bổ sung calcium hoặc sản phẩm có chứa calcium, hãy duy trì tổng lượng calcium hấp thụ dưới 700mg/ngày từ tất cả các nguồn.
- Ăn nhiều rau hơn, đặc biệt là cà chua và sốt cà chua. Lycopene, một loại carotenoid có trong cà chua và dưa hấu, có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt. Trong một nghiên cứu gần đây, những người đàn ông ăn xốt cà chua bốn lần một tuần có nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt thấp hơn 40% so với những người đàn ông hiếm khi hoặc không bao giờ ăn xốt cà chua.
- Thường xuyên ăn thực phẩm từ đậu tương. Thực phẩm từ đậu tương có chứa genistein, một loại isoflavone giúp bình thường hóa nồng độ hormone và có thể liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt.
- Ăn nhiều cá hơn. Ăn cá ít nhất một lần một tuần có thể làm giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt.
- Ăn nhiều chất xơ. Chất xơ giúp loại bỏ các hormone như testosterone có ảnh hưởng đến những thay đổi ở tuyến tiền liệt.
- Uống trà xanh. Hợp chất chống oxy hóa trong trà xanh có tên EGCG có tác dụng tiêu diệt tế bào ung thư tuyến tiền liệt trong ống nghiệm. Một hợp chất khác trong trà xanh giúp ngăn chặn hoạt động của enzyme kích thích ung thư tuyến tiền liệt.
Cách phòng ngừa ung thư tuyến tiền liệt
Xét nghiệm máu định kỳ được sử dụng để sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt đã bỏ sót khoảng 15% các trường hợp, thậm chí một số ca bệnh nặng đe dọa đến tính mạng. Xét nghiệm này tìm kiếm một loại protein (kháng nguyên đặc hiệu của tuyến tiền liệt, được gọi là PSA) do các tế bào tuyến tiền liệt tiết ra khi có khối u ác tính hoặc u phì đại. Trước đây, nồng độ PSA dưới 4 được cho là không có nguy cơ bị bệnh với độ tin cậy hợp lý; nồng độ PSA càng cao thì khả năng bị ung thư càng cao. Tuy nhiên, hiện tại, phương pháp tin cậy duy nhất để xác định hoặc loại trừ ung thư là sinh thiết.
Vì nghiên cứu đã chứng minh rằng một số nam giới có PSA dưới 4 vẫn có thể bị ung thư nên các bác sĩ đã cân nhắc lại những khuyến nghị. Để an toàn, một số chuyên gia đã lập luận ủng hộ việc sinh thiết ở tất cả nam giới có PSA trên 2.5; những người khác cho rằng đã có quá nhiều sinh thiết được thực hiện, quá nhiều xét nghiệm không đáng tin cậy và việc điều trị bệnh ung thư tuyến tiền liệt không đe dọa đến tính mạng là không cần thiết. Mặc dù ung thư tuyến tiền liệt có thể rất nguy hiểm nhưng hầu hết các khối u đều phát triển chậm với nguy cơ tử vong thấp – chỉ 3%. Những gì chúng ta cần là một xét nghiệm tốt hơn để phân biệt giữa các khối u phát triển chậm có thể không cần điều trị và ung thư phát triển nhanh đòi hỏi một cách tiếp cận tích cực.
Một số phương pháp đã được đề nghị và phát triển để cải thiện các phương pháp sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt, từ đó làm giảm số lượng sinh thiết không cần thiết. Điều chỉnh kết quả PSA kỳ vọng theo độ tuổi và kích thước của tuyến tiền liệt cũng như đo lường sự thay đổi PSA theo thời gian là một công cụ phổ biến hơn. Chụp MRI hiện có sẵn ở một số trung tâm hình ảnh cho phép xem chi tiết hơn về tuyến tiền liệt trước khi cân nhắc sinh thiết. Chụp MRI cũng giúp xác định vị trí sinh thiết, để lấy mẫu chính xác hơn ở vùng tuyến cần quan tâm. Ngoài ra, hiện nay có những nghiên cứu di truyền về dịch tuyến tiền liệt và các mô được sinh thiết có thể giúp phân biệt sự hiện diện của các phân nhóm ác tính cao. Tuy nhiên, vẫn chưa thể đưa ra các quyết định rõ ràng về cách giải quyết bệnh ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn sớm tốt nhất cho đến khi các xét nghiệm sàng lọc chính xác hơn được phát triển và hoàn thiện.
Trong thời gian chờ đợi, hãy bảo đảm rằng bạn và bác sĩ biết được những nguy cơ của riêng bạn. Tỷ lệ bị ung thư tuyến tiền liệt tăng theo tuổi tác; bệnh xảy ra thường xuyên nhất ở nam giới người Mỹ gốc Phi, những người có tiền sử gia đình bị bệnh và ăn nhiều mỡ động vật.
Để giảm thiểu rủi ro, hãy làm theo các khuyến nghị về chất bổ sung và lối sống ở trên.
Thanh Long biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc tại The Epoch Times