Một số loại thuốc quen thuộc có thể trở thành hóa chất gây ung thư
Người tiêu dùng ra hiệu thuốc để mua thuốc theo toa, họ cho rằng thuốc đó đã được kiểm tra và an toàn để sử dụng. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu một loại thuốc bị biến đổi thành chất có hại khi nó còn nằm trên kệ hoặc khi vào cơ thể? Nguyên nhân đến từ lượng NDMA chứa trong thuốc.
Một kết quả nghiên cứu rất đáng lo ngại rằng N-nitrosodimethylamine (NDMA), chất có thể gây ung thư,hiện có trong một số loại thuốc. NDMA được tìm thấy trong nước khử trùng clo, thực phẩm và thuốc ở một lượng nhỏ. Để giảm thiểu phơi nhiễm, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm đã đặt mức NDMA có thể chấp nhận được trong mỗi viên thuốc là dưới 96 nanogram.
Nhưng trong những năm qua, FDA đã phát hiện thấy lượng NDMA vượt quá mức cho phép trong một số thuốc điều trị tăng huyết áp, tiểu đường và thuốc kháng acid điều trị viêm dạ dày. Kết quả là, cơ quan này đã bắt đầu thu hồi các loại thuốc này để bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Các sản phẩm này đã bị nhiễm NDMA trong quá trình sản xuất. FDA đã khuyến cáo về các phương pháp tốt nhất cho nhà sản xuất để giảm thiểu rủi ro này trong tương lai.
Thật không may cho người dân mua thuốc, bằng chứng mới đây cho thấy NDMA cũng có thể được tạo ra khi một số loại thuốc nằm trên kệ cửa hàng hoặc tủ thuốc, thậm chí sau khi bệnh nhân đã nuốt nó. Vì vậy, không có cách nào để kiểm tra sự hiện diện của nó khi còn trong nhà máy.
Tôi là một dược sĩ và là một giáo sư có kinh nghiệm, tôi đã viết nhiều bài báo về vấn đề sản xuất và sự giám sát của FDA liên quan đến thuốc và thực phẩm chức năng trong quá khứ, bao gồm cả vấn đề nhiễm NDMA. Trong một bài viết mới đây, tôi đã thảo luận về cách NDMA có thể xuất hiện trong thuốc của bệnh nhân nếu nó không được tạo ra trong quá trình sản xuất.
Mức NDMA tăng lên sau khi sản xuất
Ranitidine (Zantac) là thuốc kê đơn thường được sử dụng để điều trị chứng ợ chua và loét dạ dày trong nhiều thập kỷ trước khi nó bị FDA thu hồi vào ngày 1 tháng 4 năm 2020. Hiện nó có thể là dấu hiệu cảnh báo cho việc tạo ra NDMA sau sản xuất.
Trong một nghiên cứu, các nhà điều tra phát hiện ra rằng ranitidine chỉ chứa 18 nanogram NDMA sau khi nó được sản xuất. Tuy nhiên, khi được bảo quản ở nhiệt độ 158 ° F trong 12 ngày – như khi thuốc để trong xe hơi nóng – thì liều lượng NDMA tăng trên 140 ng. Con số này chỉ cao hơn một chút so với giới hạn 96 ng mà FDA cho là an toàn, nhưng điều này chỉ xảy ra sau 12 ngày.
Trong một nghiên cứu khác, việc lưu trữ ranitidine ở nơi có nhiệt độ hoặc độ ẩm cao sẽ làm tăng tạo ra NDMA theo thời gian. Điều này cho thấy rằng một số loại thuốc có thể rời khỏi nhà máy với một lượng NDMA an toàn nhưng nếu để quá lâu ở nhà hoặc trên kệ hàng, thuốc có thể vượt quá giới hạn chấp nhận được vào thời điểm mà bệnh nhân sử dụng.
Trong một nghiên cứu mới trên tạp chí JAMA Network Open, các nhà điều tra đã mô phỏng môi trường dạ dày và phát hiện ra rằng khi ranitidine tiếp xúc với môi trường axit với nguồn nitrit, các chất này có thể tạo ra hơn 10,000 ng NDMA.
Kết quả này hỗ trợ một nghiên cứu lâm sàng trong đó các mẫu nước tiểu được thu thập từ 10 người lớn cả trước và sau.
khi sử dụng ranitidine. Sau khi mọi người uống ranitidine, liều NDMA trong nước tiểu tăng từ khoảng 100 ng lên hơn 40,000 ng trong ngày hôm sau.
Các loại thuốc khác cần được điều tra kỹ hơn
Trong một nghiên cứu khác, các nhà điều tra đã thêm chloramine, một chất khử trùng thường được thêm vào để khử trùng nước uống, vào các mẫu nước có chứa một trong số các loại thuốc có cấu trúc tương tự như ranitidine. Họ phát hiện ra rằng một số loại thuốc thường được sử dụng, bao gồm thuốc kháng histamine (doxylamine và chlorpheniramine), thuốc trị đau nửa đầu (sumatriptan), một loại thuốc trị chứng ợ nóng khác (nizatidine) và thuốc hạ áp (diltiazem) đều tạo ra NDMA.
Không rõ liệu lượng NDMA được tạo ra bởi những loại thuốc này khi bảo quản dưới môi trường nóng ẩm hoặc sau khi bệnh nhân nuốt phải chúng, tương tự như ranitidine có nguy hiểm hay không. Tôi tin rằng ngay bây giờ cần thực hiện thêm nhiều nghiên cứu để tìm hiểu vấn đề này. An toàn luôn tốt hơn là xin lỗi, đặc biệt là khi đối mặt với một chất có thể gây ung thư.
C.Michael White là một giáo sư ưu tú và là trưởng khoa dược lâm sàng tại Đại học Connecticut. Bài báo này được xuất bản lần đầu trên The Conversation.
C. Michael White
Hồng Ngân biên dịch
Xem thêm: