Tỷ lệ sinh giảm mạnh ở các nước chích vaccine nhiều

Ở nhiều quốc gia, tỷ lệ sinh giảm mạnh vào 9 tháng sau khi đạt đỉnh chích ngừa vaccine COVID. Hãy xem điều này xảy ra như thế nào. Và liệu dân số có phục hồi được không?

Số liệu thống kê quan trọng – Dữ liệu ẩn

Kể từ khi bắt đầu đại dịch COVID, rất khó có được các số liệu thống kê quan trọng được báo cáo bởi các chính phủ trên thế giới. [Dữ liệu] có sẵn nhưng không đồng nhất gây cản trở việc phân tích và hiểu biết.

Ví dụ, ngay cả hiện nay, Hoa Kỳ, Massachusetts, New York, Illinois và Washington là bốn tiểu bang chưa cập nhật số liệu về số ca sinh kể từ năm 2019 và 2020.

Mười chín quốc gia Âu Châu

Đến tháng 08/2022, Raimond Hagemann, Ulf Lorré và Tiến sĩ Hans-Joachim Kremer đã tổng hợp dữ liệu về sự thay đổi tỷ lệ sinh ở 19 quốc gia Âu Châu và công bố một bài báo vô cùng quan trọng. Ở từng quốc gia, điểm gãy tỷ lệ sinh giảm xảy ra đồng nhất vào cuối năm 2021.

Đây là 9 tháng sau khi bắt đầu chích ngừa vaccine COVID vào mùa xuân. Đức, Áo, Thụy Sĩ, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Latvia, Litva, Thụy Điển, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Cộng hòa Séc, Hungary, Ba Lan, Rumani và Slovenia, cũng như Iceland, Bắc Ireland, Montenegro, Serbia – tất cả đều cho thấy mô hình này. Chín tháng sau khi chích ngừa đạt đỉnh, tỷ lệ sinh giảm.

Báo cáo của R Hagemann, U Lorré và cộng sự. Dữ liệu Đan Mạch (trang 31):

Tỷ lệ sinh giảm mạnh ở các nước chích vaccine nhiều

Đồ thị tương ứng cho từng quốc gia trong 19 quốc gia có mô hình tương tự: đạt đỉnh chích ngừa vaccine COVID vào mùa xuân 2021, tiếp theo là tỷ lệ sinh giảm nhanh chóng bắt đầu từ 9 tháng sau đó.

Tất cả mười chín quốc gia được nghiên cứu đã chứng kiến sự giảm tỷ lệ sinh tăng tốc vào năm 2022, bắt đầu từ chín tháng sau khi chích vaccine COVID đạt đỉnh. Các giá trị p thấp trong bảng ủng hộ mối liên hệ thời gian giữa hai sự kiện.

Tỷ lệ sinh giảm mạnh ở các nước chích vaccine nhiều

Thụy Điển

Nhà phân tích dữ liệu Gato Malo cũng như những người khác đã chỉ ra rằng quá nhiều quốc gia đang che giấu công chúng dữ liệu thống kê quan trọng. Điều này làm trì hoãn bất kỳ các phân tích hợp lệ nào. [Nhưng dựa vào những cách gián tiếp] vẫn có thể nhận thấy điều này.

Nhìn vào Thụy Điển, ông phát hiện rằng nếu ông tính toán sự thay đổi số ca sinh hàng tháng, tỷ lệ sinh giảm mạnh bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 12/2021, khớp chặt chẽ với tỷ lệ người chưa chích ngừa 9 tháng trước đó. Điều này nhất quán với phát hiện của R Hagemann, U Lorré và cộng sự. Và tỷ lệ sinh ở Thụy Điển vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi sau sự suy giảm này.

(dữ liệu scb.se, owid) boriquagato.substack.com
(dữ liệu scb.se, owid) boriquagato.substack.com

Vương quốc Anh

Tương tự như ở các quốc gia trên, chúng ta thấy tỷ lệ sinh giảm ở Vương quốc Anh. Sau tháng 12/2021, số phụ nữ sinh con không còn ở mức 40,000 nữa, mà giờ đây đã giảm xuống và duy trì ở mức 30,000. Xem cột “Women giving birth – Phụ nữ sinh con.”

Dữ liệu từ UK Health Security Agency – Cơ quan An ninh Y tế Vương quốc Anh (trang 18):

Tỷ lệ sinh giảm mạnh ở các nước chích vaccine nhiều

So sánh sự suy giảm qua các năm, chúng ta có thể viết mức giảm trung bình này từ hai quý đầu tiên của năm 2021 sang hai quý đầu tiên của năm 2022, trong đó b là số lần sinh, như (Σ b1, 2021…b6, 2021) – (Σ b1, 2022…b6, 2022) = 256,785 – 227,302 = 29,483. Đây là mức thiếu hụt 4,913 ca sinh mỗi tháng ở Vương quốc Anh. Tương tự như Thụy Điển, điểm gãy của sự suy giảm tỷ lệ sinh nằm trong khoảng từ 9 đến 11 tháng sau các tháng đạt đỉnh chích ngừa ở Vương quốc Anh.

Dữ liệu từ Đại học Johns Hopkins, Our World In Data, đỉnh chích ngừa ở Vương quốc Anh là vào quý đầu tiên của năm 2021:

Tỷ lệ sinh giảm mạnh ở các nước chích vaccine nhiều

Thụy Sĩ

Thụy Sĩ chứng kiến tỷ lệ sinh giảm lớn nhất trong 150 năm qua, nhiều hơn cả trong hai cuộc Chiến tranh thế giới, Đại suy thoái, và ngay cả khi việc giới thiệu thuốc tránh thai được phổ biến rộng rãi.

Tại sao điều này lại xảy ra?

Cô Naomi Wolf đã khám phá các bất thường kinh nguyệt được báo cáo sau khi chích vaccine COVID, và thậm chí sau khi tiếp xúc với những người đã chích vaccine COVID. Là người đầu tiên thảo luận về những vấn đề này công khai và thu thập dữ liệu trực tuyến từ những phụ nữ đang gặp những thay đổi kinh nguyệt sau chích vaccine, cô đã bị chỉ trích và kiểm duyệt trên mạng xã hội.

Tổ chức Daily Clout của cô dẫn đầu một nhóm gồm hơn 3,000 nhà nghiên cứu, bao gồm cả bác sĩ Pierre Kory M.D., để phân tích các tài liệu được công bố bởi Pfizer/FDA [Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ] theo lệnh của tòa án về kết quả lâm sàng của cuộc thử nghiệm 44,000 người chích vaccine Pfizer COVID. Nhóm Daily Clout đã tổng kết những phát hiện của họ trong một cuốn sách trên Kindle [có tựa đề tạm dịch]: “Báo cáo phân tích tài liệu Pfizer (Pfizer Documents Analysis Reports).”

Họ báo cáo những phát hiện của Pfizer về tổn thương trầm trọng trong nhóm thử nghiệm của họ gồm 22,000 người đã chích vaccine Pfizer.

Những khám phá của Nhóm Daily Clout [được trình bày] trong cuốn sách của họ [chỉ ra] tác động của vaccine COVID lên khả năng sinh sản của cả nam và nữ. Khi theo dõi dữ liệu được báo cáo bởi Pfizer, họ phát hiện ra 270 phụ nữ mang thai trong cuộc thử nghiệm Pfizer báo cáo tổn thương do vaccine. “… nhưng Pfizer chỉ theo dõi 32 người trong số [270 phụ nữ mang thai] và 28 trẻ sơ sinh đã tử vong. 87.5% là tỷ lệ tử vong thai nhi đáng kinh ngạc.”

Pfizer đã ghi nhận hơn 158,000 biến cố bất lợi riêng biệt thuộc 1290 loại khác nhau.

Đây là một bộ sưu tập khổng lồ về tổn thương con người, như hình ảnh dưới đây.

Dữ liệu từ Pfizer Worldwide Safety (trang 30):

Tỷ lệ sinh giảm mạnh ở các nước chích vaccine nhiều

Nhóm của cô Wolf lưu ý rằng “Nếu Pfizer có một quảng cáo truyền hình cho vaccine COVID với 158,893 biến cố bất lợi được báo cáo trong 12 tuần đầu tiên, phát thanh viên sẽ phải đọc chúng trong hơn 80 giờ liên tục.”

Ngay cả danh sách vô cùng đầy đủ này cũng không hoàn chỉnh, vì Pfizer không thể tính đến kết cục của 22% người tham gia. Pfizer đã liệt kê 11,361 bệnh nhân là “chưa hồi phục ” vào thời điểm báo cáo của họ. Đây là 51.6% nhóm thử nghiệm “chưa hồi phục” từ các biến cố bất lợi.

Không có loại vaccine dạng lỏng nào sẽ “Chỉ ở nguyên vai/cánh tay.”

Chúng ta đã biết và Pfizer đã thừa nhận việc truyền protein gai từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc da và hít thở. Tôi trích dẫn và thảo luận điều đó trong bối cảnh hai người trưởng thành tiếp xúc với nhau trong một môi trường cộng đồng.

Biến cố bất lợi đối với những người mẹ cho con bú đã chích vaccine và đối với con của họ bao gồm nôn mửa, sốt, phát ban, liệt một phần, sữa mẹ đổi màu xanh-lục, và các tác dụng phụ khác.

Không ngạc nhiên, vaccine dạng lỏng cũng truyền từ mẹ sang trẻ sơ sinh, phù hợp với nguyên tắc vật lý lâu đời về sự lan tỏa và khuếch tán chất lỏng được đưa vào một cơ thể bán rắn (với 55-60% là nước), cũng như sinh lý cơ bản và không thể tranh cãi trong nhiều thế kỷ và sự lưu thông của máu và bạch huyết: Chất lỏng được đưa vào cơ thể sẽ luôn khuếch tán khắp cơ thể.

Người ta cũng đã biết rằng hạt nano lipid được dùng để lưu chuyển thuốc – kể từ lần phát triển đầu tiên – tất nhiên sẽ đi vào hệ tuần hoàn. Những người đã tuyên bố và những người đã tin rằng một mũi chích dạng lỏng sẽ chỉ “ở lại cánh tay” không có hiểu biết cơ bản về sinh học hay vật lý của một học sinh trung học.

Nhưng Pfizer biết. Họ khuyên nam giới trong cuộc thử nghiệm tránh quan hệ tình dục với phụ nữ trong độ tuổi sinh sản hoặc sử dụng bao cao su [khi quan hệ].

Dưới đây là một cái nhìn tổng quan về tác động hạt nano lipid đối với cơ quan sinh sản nam và nữ.

Tỷ lệ sinh giảm mạnh ở các nước chích vaccine nhiều
Dữ liệu từ Wang R, Song B và cộng sự. Ảnh hưởng tiềm ẩn của các hạt nano đối với hệ sinh sản.

Vô sinh nam giới và các loại vaccine COVID

Các thành phần vaccine mRNA được quan sát lan tỏa khắp cơ thể, tích tụ trong tinh hoàn và các cơ quan khác. Một biến cố bất lợi trong danh sách 1290 biến cố sau chích vaccine của Pfizer là “kháng thể kháng tinh trùng.”

Dữ liệu từ Pfizer Worldwide Safety:

Từ “tạm thời (temporarily)” trong tiêu đề gây hiểu lầm vì các nhà nghiên cứu cho rằng tinh trùng sẽ hồi phục sau thời gian nghiên cứu kéo dài ba tháng, mặc dù họ đã kết thúc quá trình quan sát vào thời điểm đó. Và họ không chỉ ra bất kỳ bằng chứng nào cho thấy tinh trùng thực sự phục hồi. Vì vậy, từ “tạm thời” cho đến nay chưa được kiểm chứng.

Pfizer không kiểm tra độc tính sinh sản nam giới, cũng như tác động bất lợi có thể được truyền lại qua tinh dịch của những người đàn ông đã chích ngừa đối với sự phát triển của con họ.

Mọi người có thể nghĩ rằng những tác động đến sinh sản nam giới sẽ được kiểm tra trong thử nghiệm của Pfizer trên chuột. Tuy nhiên, chỉ có những con chuột cái được chích ngừa; những con chuột đực thì không. Khi Pfizer tuyên bố cơ quan sinh sản của những con chuột đực không có độc tính, họ đã bỏ qua điều được nhấn mạnh trước đó: những con chuột đực hoàn toàn không được chích ngừa.

Nhưng Pfizer đã hướng dẫn những người tham gia nghiên cứu nam giới tránh giao hợp hoặc sử dụng bao cao su.

Tổn thương do hạt nano lipid gây ra đối với cơ quan sinh sản nam và khả năng sinh sản của nam giới đã được biết đến từ nhiều năm trước. Như đã thấy trong nghiên cứu vào năm 2018, các cơ quan sinh sản nam giới dễ bị ảnh hưởng độc hại từ hạt nano lipid. Ngoài số lượng và chất lượng tinh trùng giảm, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy “tinh trùng vô định hình gấp nếp (folded amorphous spermatozoa), các tế bào thiếu hoặc có móc nhỏ và các tế bào có đầu nhấp nhô hoặc dài ra là những bất thường phổ biến nhất.”

Hơn nữa, các hóa chất độc hại, chẳng hạn như phthalates và các chất gây rối loạn nội tiết khác, đã xuất hiện nhiều trong môi trường trước khi có vaccine COVID. Chúng có thể đã góp phần làm giảm số lượng và chất lượng tinh trùng trong nửa thế kỷ qua, trong đó số lượng tinh trùng giảm khoảng 1% mỗi năm kể từ năm 1972.

Tuy nhiên, các vaccine COVID đang khiến quá trình sinh tinh càng trở nên khó khăn hơn. Vấn đề là hầu hết các tế bào sinh sản nam, bao gồm ống sinh tinh và tinh trùng, đều chứa ACE-2, đây chính là điểm mà protein gai sử dụng để xâm nhập vào tế bào người. Cũng giống như những gì xảy ra trong các mạch máu khắp cơ thể, protein gai gắn với các thụ thể ACE-2 gây hại không chỉ cho tinh trùng mà còn cả hàng rào máu-tinh hoàn, và góp phần gây viêm tinh hoàn. Ở ngày thứ 150 [sau chích vaccine], nồng độ tinh trùng là 15.9% giảm dưới mức cơ bản, thấp hơn cả trong khoảng thời gian từ 75 đến 120 ngày, và chưa bắt đầu hồi phục vào cuối nghiên cứu.

Vô sinh nữ giới và vaccine COVID

Tổ chức Y tế Thế giới đã quan tâm đến “vaccine kháng vô sinh” và “vaccine điều chỉnh khả năng sinh sản” từ lâu, như họ đã viết vào năm 1992. “Chorionic Gonadotropin là chất kháng nguyên duy nhất đạt tiêu chí cho một vaccine tránh thai lý tưởng.”

Tử vong thai nhi đã trở nên tràn lan ở những phụ nữ mang thai chích vaccine COVID trong Hệ thống Giám sát V-Safe (V-Safe Surveillance System) của CDC đến nỗi tôi đã so sánh tỷ lệ sẩy thai với “thuốc tránh thai vào buổi sáng” về tác dụng phá thai của những lần mang thai đã biết kết cục. Tức là, hiệu quả phá thai từ 80 đến 90%. Đây là mức độ tương đương với những gì nhóm cô Naomi Wolf/Daily Clout tìm thấy, là 87.5%, như đã trích dẫn ở trên. Tuy nhiên, dữ liệu V-Safe đã được công bố quá sớm để có thể tính toán chính xác tất cả kết quả mang thai, chỉ đơn giản vì nó bao gồm các phụ nữ vẫn trong hai tam cá nguyệt đầu tiên của thai kỳ.

Bài này xem xét đối tượng phụ nữ mang thai trong nửa sau (20 tuần thức) của thai kỳ. Tuy nhiên, kết quả dường như bị lỗi do thiếu dữ liệu.

Sẩy thai cũng cho thấy một phản ứng tuỳ thuộc vào liều lượng. Liều vaccine Pfizer là 30mcg và liều vaccine Moderna là 100mcg. Cuộc họp ủy ban chuyên gia CDC vào tháng 10/2022 (ACIP) đã trình bày các dữ liệu sau:

12,751 phụ nữ chích vaccine Pfizer, và 8,365 phụ nữ chích vaccine Moderna. 422 phụ nữ chích vaccine Pfizer, chiếm 3% tổng số phụ nữ chích Pfizer, bị sẩy thai (sảy thai vào tuần thứ 20), và 395 phụ nữ chích vaccine Moderna, chiếm 4.7% tổng số phụ nữ chích vaccine Moderna, bị sẩy thai.

CDC. COVID-19 ở phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh từ 0-5 tháng tuổi. (pdf)
CDC. COVID-19 ở phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh từ 0-5 tháng tuổi. (pdf)

Vậy có nghĩa là tỷ lệ sẩy thai trong nhóm Moderna cao hơn 42% so với nhóm Pfizer. Sự khác biệt lớn về tỷ lệ phần trăm trong nhóm đối tượng số lượng lớn (có hàng nghìn người tham gia) chứng minh mối quan hệ giữa phản ứng liều vaccine với tỷ lệ sẩy thai, trở nên tệ hơn khi sử dụng với liều mạnh hơn. Mối quan hệ phản ứng liều này là một trong những tiêu chí mà Bradford Hill dùng để thiết lập nguyên nhân và kết quả.

Pfizer đã cố gắng giấu kín dữ liệu trong 75 năm, nhưng sau đó đã buộc phải công bố theo lệnh của tòa án, tiết lộ tổng số 158,000 biến cố bất lợi gồm 1,290 loại, như đã nêu ở trên.

Ngoài ra dữ liệu cũng cho thấy Pfizer đã loại trừ 21 nhóm người khỏi các thử nghiệm của họ, bao gồm “phụ nữ đang mang thai hoặc cho con bú.”

Các vaccine đã được thử nghiệm trên 44 con chuột đang mang thai trong hơn 6 tuần, theo yêu cầu của các phác đồ nghiên cứu về Độc tính Phát triển và Sinh sản (Developmental and Reproductive Toxicity), nhưng chúng chưa được thử nghiệm trên phụ nữ mang thai. Không có tác dụng xấu nào được báo cáo từ nghiên cứu trên chuột.

Tuy nhiên, chín trong số mười tác giả nghiên cứu đều là nhân viên và nắm giữ cổ phiếu trong các công ty Pfizer hoặc BioNTech, được lưu ý trong phần chữ nhỏ cuối bài viết. Do đó, một nghiên cứu có nhiều mâu thuẫn chỉ với 44 con chuột, được nghiên cứu trong hơn sáu tuần, là cơ sở nghiên cứu duy nhất để chuyên gia sản khoa khuyến khích phụ nữ mang thai chích vaccine.

Pfizer đã báo cáo về những phụ nữ trong thử nghiệm mang thai sau khi chích vaccine, cho thấy có 413 phụ nữ mang thai, trong đó có 270 trường hợp được xem là trầm trọng và 146 trường hợp không trầm trọng. Các trường hợp trầm trọng bao gồm “sẩy thai tự phát, kết cục chưa xác định, sinh non với tử vong sơ sinh, sẩy thai tự phát với tử vong trong tử cung (mỗi loại 2 trường hợp), sẩy thai tự phát với tử vong sơ sinh, và kết cục bình thường (mỗi loại 1 trường hợp). Không có kết cục nào được đưa ra cho 238 ca mang thai.” Vấn đề với thử nghiệm ngắn 12 tuần là hầu như tất cả các trường hợp mang thai mới này dường như đều ở trong giai đoạn đầu của thai kỳ, tam cá nguyệt đầu tiên, khi kết thúc thử nghiệm.

Nhóm nghiên cứu Daily Clout đã xác định sau khi kiểm tra và so sánh các trường hợp sảy thai sau khi chích nhiều loại vaccine khác nhau theo thời gian:

“Nếu bạn đang mang thai, bạn có nhiều khả năng bị sảy thai nếu chích vaccin COVID-19 hơn so với vaccine sởi, quai bị, cúm, uốn ván hoặc bất kỳ loại vaccine nào khác.”

Họ tìm thấy từ Hệ thống Báo cáo Biến cố bất lợi của Vaccine (VAERS) của chính phủ Hoa Kỳ rằng trong lịch sử 30 năm của VAERS, đến tháng 03/2022, tổng cộng 4,693 trường hợp đã bị sảy thai trong tất cả những năm đó. 4,505 trong số đó đã chích một loại vaccine duy nhất. 3,430 trường hợp sảy thai là ở phụ nữ chích một loại vaccine COVID. 16 trong số 3,430 người đó cũng đã nhận một loại vaccine khác gần thời điểm đó. Vì vậy, 3,430 – 16 = 3,414 trường hợp sảy thai sau khi chỉ chích vaccine COVID.

So sánh con số này với 4,505 của tất cả các loại vaccine đơn lẻ trong lịch sử 30 năm của VAERS. Do đó, 3,414 / 4,505 = 76% số ca sảy thai từng được báo cáo cho VAERS xảy ra sau khi vaccine COVID được sử dụng trong thời gian ngắn, từ tháng 12/2020 đến tháng 03/2022.

Ít nhất từ năm 2010, người ta đã biết rằng các hạt nano gây hại cho buồng trứng và khả năng sinh sản nói chung, và có hiện tượng tích tụ sinh học.

Trong trường hợp protein gai, không có gì ngạc nhiên khi thấy rằng thụ thể ACE-2 là cổng vào cho protein gai tiếp cận các tế bào buồng trứng, cả tế bào hạt và tế bào viền. Đây là các tế bào buồng trứng hỗ trợ sự phát triển của trứng non.

Dị tật bẩm sinh

Hệ thống Cơ sở dữ liệu Dịch tễ Y tế Quốc phòng Hoa Kỳ (DMED) là cơ sở dữ liệu thống kê sức khỏe lớn nhất của tập hợp quân đội trẻ, khỏe mạnh. Đó là cho đến khi các quân nhân nghĩa vụ quân đội buộc phải chích vaccine COVID hoặc bị buộc giải ngũ một cách hổ thẹn, mất quyền lợi. Rất ít nếu có bất kỳ miễn trừ tôn giáo nào được cho phép.

Cơ sở dữ liệu DMED báo cáo khi so sánh năm 2021 với năm 2020, tỷ lệ báo cáo vô sinh nữ tăng 419%, tỷ lệ vô sinh nam tăng 320% và tỷ lệ dị tật bẩm sinh tăng 87%. Báo cáo cho thấy tỷ lệ cơ sở trung bình là 10,906 trường hợp mỗi năm, từ 2016 đến 2020. Sau đó, một phần của năm 2021, thậm chí chưa phải là cả năm, đã cho thấy 18,951 trường hợp như vậy. Đây là một sự gia tăng 74% so với mức trung bình từ năm 2016 đến 2020.

Phòng ngừa dễ dàng hơn nhiều so với chữa trị. Tránh các chất độc như các hạt nano, đặc biệt là những loại tạo ra protein gai, như các loại vaccine mRNA, là bước cần thiết đầu tiên. Hy vọng những năm tới sẽ cho thấy sự đảo ngược của cuộc khủng hoảng về khả năng sinh sản đối với cả nam và nữ, khi chúng ta tìm hiểu cách có thể thực hiện được điều đó.

Bài viết trên được đăng lại từ Colleen Huber's Substack.
Bài viết trên được đăng lại từ Colleen Huber’s Substack.
Quan điểm được bày tỏ trong bài viết này là quan điểm của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của Epoch Times. Epoch Health hoan nghênh thảo luận chuyên nghiệp và tranh luận thân thiện. Để gửi bài viết ý kiến, vui lòng làm theo các hướng dẫn này và gửi thông qua biểu mẫu tại đây.
Quan điểm được bày tỏ trong bài viết này là quan điểm của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của Epoch Times. Epoch Health hoan nghênh thảo luận chuyên nghiệp và tranh luận thân thiện. Để gửi bài viết ý kiến, vui lòng làm theo các hướng dẫn này và gửi thông qua biểu mẫu tại đây.

Tài liệu tham khảo

[1] Annual Massachusetts Birth Reports. Screenshot taken Jan. 27, 2023. Mass.gov. https://www.mass.gov/lists/annual-massachusetts-birth-reports

[2] New York State Dept of Health. Vital statistics of New York State. Screenshot taken Jan 27, 2023. NY.gov. https://www.health.ny.gov/statistics/vital_statistics/vs_reports_tables_list.htm

[3] Birth Statistics. Screenshot taken Jan. 27, 2023. Illinois.gov.
https://dph.illinois.gov/data-statistics/vital-statistics/birth-statistics.html

[4] Washington State Dept of Health. All births dashboard – ACH. Screenshot taken Jan 27, 2023. WA.gov. https://doh.wa.gov/data-statistical-reports/washington-tracking-network-wtn/birth-outcomes/ach-all-births-dashboard-0

[5] R Hagemann, U Lorré, et al. [Decline in birth rates in Europe; in German]. Aug 25, 2022. Aletheia Scimed. https://www.aletheia-scimed.ch/wp-content/uploads/2022/08/Geburtenrueckgang-Europe-DE_25082022_2.pdf

[6] El gato malo. Swedish birthrate data: November update. Jan 25, 2023. Substack. bad cattitude

[7] UK Health Security Agency. COVID-19 vaccine surveillance report. Week 5. Feb 2, 2023. P. 18. https://assets.publishing.service.gov.uk/government/uploads/system/uploads/attachment_data/file/1134076/vaccine-surveillance-report-week-5-2023.pdf

[8] Johns Hopkins University. Our World in Data. Daily number of people receiving a first COVID-19 vaccine, UK. https://ourworldindata.org/covid-vaccinations

[9] K Beck. Analysis of a possible connection between the COVID =19 vaccination and the fall in the birth rate in Switzerland in 2022. Sep 22, 2022. Univ of Lucerne. Quoted in R Chandler, Report 52: Nine months post-COVID mRNA “vaccine” rollout, substantial birth rate drops in 13 European countries, England/Wales, Australia, and Taiwan. Jan 16, 2023. Daily Clout.
https://dailyclout.io/report-52-nine-months-post-covid-mrna-vaccine-rollout-substantial-birth-rate-drops/

[10] A. Kelly, War Room / Daily Clout. Pfizer Documents Analysis Volunteers’ Reports eBook. https://www.amazon.com/DailyClout-Documents-Analysis-Volunteers-Reports-ebook/dp/B0BSK6LV5D/

[11] Ibid, p 10.

[12] Ibid, p 10.

[13] Pfizer Worldwide Safety. 5.3.6 Cumulative analysis of post-authorization adverse event reports of PF-07302048 (BNT162B2) received through 28 Feb 2021. Appendix 1: List of adverse events of special interest. Pp 30-38. https://phmpt.org/wp-content/uploads/2021/11/5.3.6-postmarketing-experience.pdf

[14] A. Kelly, War Room / Daily Clout p 14.
https://www.amazon.com/DailyClout-Documents-Analysis-Volunteers-Reports-ebook/dp/B0BSK6LV5D/

[15] Pfizer Worldwide Safety, Table 1, p 7.
https://phmpt.org/wp-content/uploads/2021/11/5.3.6-postmarketing-experience.pdf

[16] C Huber. Secondary vaccine effects. Feb 9, 2022. The Defeat Of COVID Substack.

[17] R Wang, B Song, et al. Potential adverse effects of nanoparticles on the reproductive system. Dec 11, 2018. Int J Nanomedicine.
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC6294055/

[18] Acuitas Therapeutics, Inc. A Tissue distribution study of a [3-H]-labelled lipid nanoparticle-mRNA formulation containing ALC-0315 and ALC-0159 following intramuscular administration in Wistar Han rats. Nov 9, 2021. p. 24. https://www.phmpt.org/wp-content/uploads/2022/03/125742_S1_M4_4223_185350.pdf

[19] I Gat, A Kedem, et al. COVID-19 vaccination GNT162b2 temporarily impairs semen concentration and total motile count among semen donors. Jun 17, 2022. Andrology. https://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1111/andr.13209

[20] Gov.UK. Summary of the public assessment report for COVID-19 vaccine Pfizer/BioNTech. Jan 6 2023 update. https://www.gov.uk/government/publications/regulatory-approval-of-pfizer-biontech-vaccine-for-covid-19/summary-public-assessment-report-for-pfizerbiontech-covid-19-vaccine

[21] Acuitas Therapeutics, Inc. A Tissue distribution study of a [3-H]-labelled lipid nanoparticle-mRNA formulation containing ALC-0315 and ALC-0159 following intramuscular administration in Wistar Han rats. Nov 9, 2021. p. 29. https://www.phmpt.org/wp-content/uploads/2022/03/125742_S1_M4_4223_185350.pdf

[22] R Wang, B Song, et al. Potential adverse effects of nanoparticles on the reproductive system. Dec 11, 2018. Int J Nanomedicine.
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC6294055/

[23] Ibid. Wang.

[24] R Sumner, M Tomlinson, et al. Independent and combined effects of diethylhexyl phthalate and polychlorinated biphenyl 153 on sperm quality in the human and dog. Mar 4, 2019.
https://www.nature.com/articles/s41598-019-39913-9

[25] E Carlsen, A Givercman, et al. Evidence for decreasing quality of semen during past 50 years. Sep 12, 1992. BMJ. https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/1393072/

[26] H Levine, N Jorgensen, et al. Temporal trends in sperm count: a systematic review and meta-regression analysis of samples collected globally in the 20th and 21st centuries. Nov 15, 2022. Oxford: Human Reproduction Update. https://academic.oup.com/humupd/advance-article/doi/10.1093/humupd/dmac035/6824414?login=false

[27] I Gat, A Kedem, et al. COVID-19 vaccination GNT162b2 temporarily impairs semen concentration and total motile count among semen donors. Jun 17, 2022. Andrology. https://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1111/andr.13209

[28] World Health Organization. Fertility regulating vaccines. Aug 17-18 1992. Geneva. https://drive.google.com/file/d/1FKMhagpd6bRZJ8la96bgH7UwQ8CmFNnI/view

[29] T Shimabukuro, S Kim, et al. Preliminary findings of mRNA COVID-19 vaccines safety in pregnant persons. Jun 17, 2021. NEJM.
https://www.nejm.org/doi/full/10.1056/NEJMoa2104983

[30] C Huber. COVID vaccines may rival or exceed ‘the morning-after pill’ in abortion efficacy. Aug 2021. The Defeat of COVID Substack.

[31] L Zauche, B Wallace, et al. Receipt of mRNA COVID-19 vaccine and risk of spontaneous abortion. Se 8 2021. NEJM.
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC8451181/

[32] Arkmedic. The curious case of the miscalculated miscarriages. Sep 14, 2021. Substack.

[33] CDC. COVID-19 in pregnant people and infants ages 0-5 months. Slide 32. https://www.cdc.gov/vaccines/acip/meetings/downloads/slides-2022-10-19-20/02-03-04-COVID-Ellington-Kharbanda-Olson-Fleming-Dutra-508.pdf

[34] Pfizer Worldwide Safety. Annotated book for study design. Exclusion number 2.h, 11. p 33. https://phmpt.org/wp-content/uploads/2022/04/125742_S1_M5_5351_c4591001-fa-interim-sample-crf.pdf

[35] C Bowman, M Bouressam, et al. Lack of effects on female fertility and prenatal and postnatal offspring development in rats with BNT162b2, a mRNA-based COVID-19 vaccine. Aug 2021. Reprod Toxicol. https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/34058573/

[36] Pfizer Worldwide Safety, Table 6, p 12.
https://phmpt.org/wp-content/uploads/2021/11/5.3.6-postmarketing-experience.pdf

[37] A. Kelly, War Room / Daily Clout.
https://www.amazon.com/DailyClout-Documents-Analysis-Volunteers-Reports-ebook/dp/B0BSK6LV5D/

[38] A Schadlich, S Hoffman, et al. Accumulation of nanocarriers in the ovary: A neglected toxicity risk? May 30, 2012. J Contr Release. 160 (1), PP 105-112. https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0168365912000892?

[39] M Ajdary, F Keyhanfar, et al. P{otential toxicity of nanoparticles on the reproductive system animal models: A review. Nov 2021. J Reprod Immun. 148. 103384. https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0165037821001145

[40] F Luongo, F Dragoni, et al. SARS-CoV-2 infection of human ovarian cells: A potential negative impact on female fertility. Apr 23, 2022. Cell.
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC9105548/pdf/cells-11-01431.pdf

[41] Health.mil. Defense Medical Epidemiology Database (DMED).
https://health.mil/Military-Health-Topics/Health-Readiness/AFHSD/Data-Management-and-Technical-Support/Defense-Medical-Epidemiology-Database

[42] A. Kelly, War Room / Daily Clout p 91..
https://www.amazon.com/DailyClout-Documents-Analysis-Volunteers-Reports-ebook/dp/B0BSK6LV5D/

Colleen Huber là một Bác sĩ Y học Thiên nhiên với 15 năm kinh nghiệm. Cô là tác giả của các cuốn sách “The Defeat Of COVID” (Đánh bại COVID), “Manifesto for a Cancer Patient” (Lời tuyên ngôn dành cho bệnh nhân ung thư) và “Choose Your Foods Like Your Life Depends On Them” (Lựa chọn thực phẩm như thể cuộc sống của bạn phụ thuộc vào chúng), tất cả đều có trên Amazon.

Thiên Vân biên dịch

Quý vị tham khảo chi tiết tại The Epoch Times

Chia sẻ bài viết này tới bạn bè của bạn