Cắt amidan có thể làm tăng nguy cơ bị một số bệnh ung thư
Hệ miễn dịch kỳ diệu (Phần 3)
Trong loạt bài “Hệ miễn dịch kỳ diệu” này, chúng ta sẽ khám phá sức mạnh thực sự của khả năng miễn dịch, vốn là những cơ quan hoạt động không mệt mỏi để bảo vệ cơ thể. Chúng tôi cũng sẽ cung cấp những cách thiết thực để bảo vệ những món quà quan trọng mà tạo hóa đã ban cho chúng ta.
Phần 1: Amidan: Người gác cổng thầm lặng của hệ miễn dịch mà nhiều người không biết
Phần 2: Cắt amidan: Thủ thuật ‘nhỏ’ – rủi ro lớn về lâu dài
Amidan từ lâu đã bị đánh giá thấp. Trên thực tế, hàng năm, có hơn 500,000 trẻ em Mỹ dưới 15 tuổi trải qua phẫu thuật cắt bỏ amidan.
Như chúng ta đã nói trong các bài viết trước, amidan là tuyến phòng thủ miễn dịch mà virus và vi khuẩn lạ phải đối mặt để xâm nhập vào cơ thể. Do đó, việc cắt bỏ amidan cho phép mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể mà không bị phát hiện và ảnh hưởng đến các mô hình phòng thủ tự nhiên theo nhiều cách. Điều này khiến cơ thể luôn trong tình trạng dễ bị tổn thương, có khả năng đe dọa đến tính mạng.
Điều này không có nghĩa là không nên cắt amidan nhưng chúng ta cần suy nghĩ kỹ và cân nhắc giữa rủi ro và lợi ích trước khi dễ dàng hy sinh cơ chế bảo vệ miễn dịch quan trọng này.
Tóm tắt
- Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên bệnh nhân sau khi cắt amidan cho thấy nguy cơ phát triển ung thư thực quản hoặc các tình trạng tiền ung thư cao hơn.
- Một nghiên cứu lớn từ Đan Mạch cho thấy cắt amidan có thể giảm tới 85% nguy cơ ung thư amidan và ung thư hầu họng ở những người dưới 60 tuổi. Tuy nhiên, đối với những người trên 60 tuổi thì việc cắt amidan có thể làm tăng nguy cơ bị các bệnh ung thư này lên đến ba lần.
- Nghiên cứu tại Đại học University of North Carolina ở Chapel Hill cho thấy cắt amidan trước 13 tuổi làm tăng nguy cơ ung thư ở gốc lưỡi. Cắt amidan làm tăng gấp đôi nguy cơ ung thư lưỡi nhưng giảm nguy cơ ung thư amidan.
- Một nghiên cứu về phụ nữ sống ở phía tây New York cho thấy tiền sử cắt amidan có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ tiền mãn kinh nhưng chưa mãn kinh.
- Nghiên cứu được thực hiện ở Thụy Điển theo dõi hơn 80,000 người đã cắt amidan hoặc ruột thừa trước 20 tuổi cho thấy họ có nguy cơ bị đau tim cao hơn sau này trong đời. Đối tượng có nguy cơ cao nhất là những người đã cắt bỏ cả amidan và ruột thừa.
- Một nghiên cứu của Đài Loan đã phân tích dữ liệu từ 1,300 bệnh nhân cắt amidan và 2,600 người khác để đối chứng cho thấy những bệnh nhân cắt amidan có nguy cơ bị hội chứng ruột kích thích gần gấp đôi so với những người không cắt. Nguy cơ thậm chí còn cao hơn đối với bệnh nhân trên 50 tuổi.
- Rủi ro và lợi ích nên được suy xét cẩn thận trước khi quyết định xem liệu việc cắt amidan có phải là giải pháp thích hợp hay không.
Ung thư thực quản
Ung thư thực quản là một loại ung thư nguy hiểm mà hơn 80% người bệnh không sống được quá 5 năm. Khoảng 21,560 trường hợp ung thư thực quản mới và 16,120 trường hợp tử vong do căn bệnh này được dự đoán sẽ xảy ra ở Hoa Kỳ vào năm 2023, theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ.
Trong nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu được đăng trên tập san PLoS One vào năm 2020, các bác sĩ đã đánh giá mối liên quan giữa việc cắt amidan và ung thư thực quản. Họ đã xem xét 452 bệnh nhân đã phẫu thuật thực quản, trong đó có 396 người bị ung thư và 56 người tiền ung thư. Các bác sĩ cũng xem xét 1,102 bệnh nhân được phẫu thuật ngực nhưng không phẫu thuật thực quản.
Các bệnh nhân ung thư thực quản hoặc tiền ung thư có tiền sử cắt amidan là 19.9%, cao hơn đáng kể so với các trường hợp đối chứng khác (12.7%; p-value = 0.0003). Mối liên quan này vẫn có ý nghĩa ngay cả khi tính đến các yếu tố nguy cơ đã biết khác đối với ung thư thực quản như béo phì, bệnh trào ngược dạ dày thực quản và hút thuốc.
Nghiên cứu nói rằng lý do chính xác đằng sau mối liên hệ này vẫn chưa được biết, nhưng cách giải thích có thể là việc cắt bỏ amidan có thể gây ra mất cân bằng trong hệ vi sinh vật của thực quản, ruột hoặc cả hai, có thể dẫn đến việc tiếp xúc với vi khuẩn có hại và kích hoạt không kiểm soát các con đường gây viêm, có khả năng ảnh hưởng đến hệ miễn dịch.
Các nghiên cứu bổ sung đã phát hiện rằng sự đa dạng của vi khuẩn trong thực quản khác nhau ở những người có tổn thương tiền ung thư và ung thư thực quản. Những điều kiện này có liên quan đến sự gia tăng vi khuẩn có hại và giảm vi khuẩn có lợi. Sự thay đổi thành phần của vi khuẩn có thể gây ra sự thay đổi trong mô hình phản ứng của miễn dịch bẩm sinh, bao gồm các thụ thể giống như thụ thể toll-like và cấu hình cytokine, dẫn đến sự hình thành những tác nhân gây ung thư liên quan đến viêm nhiễm và sự phát triển của ung thư.
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy việc cắt amidan giảm tạo ra các kháng thể như immunoglobulin A (IgA). Mucosal IgA là một loại kháng thể bảo vệ chống lại mầm bệnh xâm nhập từ niêm mạc; mức IgA thấp có thể góp phần làm tăng tình trạng tiền viêm và tăng nguy cơ bị bệnh, kể cả ung thư.
Bởi vì amidan là người gác cổng miễn dịch nên nguy cơ phát triển ung thư thực quản có thể tăng lên khi amidan biến mất.
Ung thư vòm họng và amidan
Ung thư vòm họng và ung thư amidan có thể xảy ra khi có sự phát triển bất thường của các tế bào ở phần giữa của cổ họng, hầu họng. Hơn 90% các bệnh ung thư này là ung thư biểu mô tế bào vảy, có nghĩa là ung thư bắt đầu từ các tế bào phẳng và mỏng dọc theo cổ họng.
Số trường hợp ung thư biểu mô hầu họng đang gia tăng ở mức báo động trên toàn thế giới, đặc biệt là ở các nước phát triển và đang ảnh hưởng đến những người trẻ tuổi và nhiều nam giới hơn. Sự gia tăng này chủ yếu là do virus gây u nhú ở người (HPV), lây lan qua quan hệ tình dục và là nguyên nhân chính gây ung thư biểu mô hầu họng.
Có hai loại ung thư hầu họng: liên quan đến HPV và không liên quan đến HPV. Ung thư liên quan đến HPV do một loại virus lây lan qua quan hệ tình dục bằng miệng gây ra. Loại ung thư này đang trở nên phổ biến hơn, đặc biệt là ở những người trẻ tuổi và nam giới. Ung thư vòm họng không liên quan đến HPV chủ yếu là do hút thuốc và uống nhiều rượu.
Ung thư amidan là dạng ung thư hầu họng phổ biến nhất và ngay cả những người đã cắt bỏ amidan vẫn có nguy cơ phát triển ung thư ở mô còn sót lại.
Nghiên cứu ở Đan Mạch được công bố trên tập san Nghiên cứu Phòng chống Ung thư với sự tham gia của 90,755 người có tiền sử cắt bỏ amidan cho thấy rằng mặc dù thủ thuật này làm giảm nguy cơ ung thư biểu mô amidan ở bệnh nhân dưới 60 tuổi, nhưng điều này có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư biểu mô hầu họng, amidan và ung thư lưỡi ở những bệnh nhân trên 60 tuổi trong vòng một năm sau phẫu thuật.
Các chất trung gian gây viêm kinh niên có tác dụng nhiều mặt đối với sự phát triển của ung thư. Việc loại bỏ các mô amidan bị viêm dẫn đến giảm tình trạng viêm để tiêu diệt ung thư và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sinh ung thư, biến đổi ác tính, phát triển khối u, xâm lấn và lan rộng. Mặt khác, tình trạng viêm có thể kích thích các cơ chế tác động miễn dịch có thể hạn chế sự phát triển của khối u.
Việc không có mô amidan có thể tương ứng với việc mất đáp ứng miễn dịch tại chỗ, và trên thực tế, có thể tạo ra môi trường bị ức chế miễn dịch tại chỗ. Về lâu dài, điều này có thể dẫn đến nguy cơ bị bệnh ung thư cao hơn.
Ung thư lưỡi
Các nhà nghiên cứu tại Trường Y khoa Chapel Hill thuộc Đại học University of North Carolina đã phát hiện rằng việc cắt bỏ amidan ở những người dưới 13 tuổi có liên quan đến việc tăng gần gấp đôi nguy cơ ung thư lưỡi và giảm đáng kể nguy cơ ung thư amidan. Xu hướng tương tự vẫn tồn tại khi xem xét các yếu tố rủi ro khác như tiền sử tình dục, tình trạng hút thuốc và tuổi tác.
Kết quả nghiên cứu dựa trên phân tích 1,378 đối chứng, 108 trường hợp ung thư lưỡi và 198 trường hợp ung thư amidan.
Một lời giải thích có thể là những bệnh nhân có tiền sử cắt amidan xung quanh thành họng có thể bị phì đại amidan lưỡi, bởi vì sự mở rộng của amidan lưỡi đã được quan sát thấy ở 1/3 số bệnh nhi trải qua phẫu thuật cắt bỏ amidan.
Sự phát triển quá mức của các mô amidan trong lưỡi có thể dẫn đến tăng mô bạch huyết, điều này cũng có thể thúc đẩy ung thư lưỡi.
Ung thư vú
Nghiên cứu về phụ nữ sống ở phía tây New York từ năm 1986 đến năm 1991 đã phát hiện rằng tiền sử cắt amidan có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ tiền mãn kinh nhưng chưa mãn kinh.
Nguy cơ lâu dài này sau khi cắt amidan có thể tương quan với vai trò giám sát miễn dịch của amidan.
Nhồi máu cơ tim cấp tính
Một nghiên cứu quy mô quốc gia từ Thụy Điển cho thấy những người cắt bỏ amidan hoặc ruột thừa trước 20 tuổi có nguy cơ cao bị nhồi máu cơ tim cấp tính, còn được gọi là truỵ tim.
Nghiên cứu đã theo dõi hơn 80,000 người trong trung bình 23.5 năm, bao gồm 54,449 người đã cắt ruột thừa và 27,284 người đã cắt amidan.
Nguy cơ đau tim tăng lần lượt là 44% và 33% đối với những người cắt amidan hoặc cắt ruột thừa trước 20 tuổi. Tuy nhiên, nguy cơ này không tăng nếu thủ thuật được thực hiện sau 20 tuổi. Nam và nữ có nguy cơ tương tự nhau và nguy cơ này cao nhất ở những người cắt cả amidan và ruột thừa.
Điều này có thể là do chứng xơ vữa động mạch, nguyên nhân cơ bản của các cơn đau tim, có liên quan đến chứng viêm. Việc loại bỏ các cơ quan bạch huyết khác, như lá lách, đã được chứng minh là làm tăng tốc độ xơ vữa động mạch. Các nhà khoa học cho rằng việc cắt bỏ amidan hoặc ruột thừa cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng miễn dịch bảo vệ mạch máu của cơ thể và làm giảm khả năng chống lại mầm bệnh bên ngoài của hệ miễn dịch, do đó làm tăng nguy cơ xơ vữa động mạch.
Cũng có thể việc thực hiện các thủ thuật này khi còn nhỏ sẽ làm tăng nguy cơ rối loạn tự miễn dịch, như viêm khớp dạng thấp, cũng có thể góp phần làm tăng nguy cơ đau tim.
Cắt bỏ amidan cũng có thể tạo ra những thay đổi trong quá trình trưởng thành bình thường của chức năng miễn dịch trong giai đoạn đầu đời, điều này có thể làm thay đổi nguy cơ tim mạch sau này.
Hội chứng ruột kích thích
Khoảng 7 đến 16% dân số ở Hoa Kỳ bị hội chứng ruột kích thích (IBS). Chứng rối loạn được phân loại theo triệu chứng tiêu chảy, táo bón hoặc cả hai. IBS có thể gây ra các vấn đề về dạ dày và ruột như tiêu chảy, táo bón, đầy bụng, đầy hơi và đau dạ dày. Lão hóa, căng thẳng và hút thuốc là những yếu tố rủi ro phổ biến và IBS phổ biến hơn ở phụ nữ.
Trong nghiên cứu PLoS One năm 2020, các nhà nghiên cứu ở Đài Loan đã kiểm tra nguy cơ phát triển IBS sau khi cắt amidan bằng cách phân tích dữ liệu từ 1,300 bệnh nhân cắt amidan và 2,600 đối chứng phù hợp.
Nghiên cứu cho thấy cắt amidan có liên quan đến nguy cơ phát triển IBS cao hơn. Tỷ lệ bị bệnh IBS trên người đã cắt amidan tăng 80% và thậm chí còn cao hơn đối với bệnh nhân cắt amidan trên 50 tuổi.
Việc giảm nồng độ IgA tiết ra sau khi cắt amidan có thể kéo dài hơn 20 năm. Rối loạn hệ vi sinh vật đường ruột và giảm đa dạng vi khuẩn có liên quan đến cơ chế bệnh sinh của IBS.
Amidan giúp phân biệt giữa vi khuẩn cộng sinh và vi khuẩn gây bệnh trong đường tiêu hóa và ngăn ngừa các phản ứng miễn dịch không cần thiết, và việc cắt bỏ amidan ở bệnh nhân lớn tuổi có thể cho thấy mối tương quan cao hơn với sự phát triển của IBS so với bệnh nhân trẻ tuổi.
Tương tự, một phân tích tổng hợp của 23 nghiên cứu quan sát liên quan đến 19,569 bệnh nhân cho thấy nguy cơ phát triển bệnh Crohn gia tăng nhưng không có mối liên hệ nào giữa việc cắt amidan và viêm loét đại tràng.
Rủi ro so với lợi ích của việc cắt amidan
Cắt amidan là thủ thuật phổ biến để điều trị viêm amidan tái phát và các tình trạng khác, nhưng không phải lúc nào cũng cần thiết hoặc tốt nhất cho tất cả mọi người. Bất kỳ thủ thuật y khoa nào thì cũng đều có những rủi ro và lợi ích cần suy xét, và điều quan trọng là phải thảo luận những điều này với chuyên gia chăm sóc sức khỏe để xác định hướng hành động tốt nhất. Các bác sĩ, bệnh nhân và gia đình có thể muốn tham khảo những tài liệu này trước khi xem xét cắt amidan.
Cắt amidan thường được coi là một thủ thuật nhỏ ở trẻ em nhưng việc này có nguy cơ gây ra biến chứng như các vấn đề về hô hấp, buồn nôn, nôn, đau và thậm chí tử vong. Cắt amidan đã cho thấy những lợi ích ngắn hạn như giảm nhiễm trùng cổ họng và mang lại giấc ngủ ngon hơn.
Những rủi ro lâu dài liên quan đến việc cắt amidan bao gồm tăng nguy cơ nhiễm trùng, bệnh đường hô hấp, ung thư, nhồi máu cơ tim cấp tính, các bệnh đường ruột và một số bệnh đe dọa đến tính mạng. Những ảnh hưởng lâu dài bất ngờ này của việc cắt amidan là lời nhắc nhở về khả năng chữa bệnh tự nhiên và khả năng miễn dịch của cơ thể con người.
Mặc dù có thể có động cơ cắt bỏ amidan để nhanh chóng giải quyết các triệu chứng nhưng việc phục hồi khả năng miễn dịch tự nhiên trời phú cho cơ thể có thể không dễ dàng và có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng hơn.
Tiếp theo: Giải độc siêu việt: Mở khóa khả năng chữa bệnh bí mật của hệ bạch huyết
Hệ bạch huyết là “người quản lý mạng lưới miễn dịch” của cơ thể được thiết kế để ngăn chặn độc tố bên trong và bên ngoài ra khỏi cơ thể chúng ta. Tuy nhiên, khả năng chữa bệnh thực sự của hệ bạch huyết còn vượt xa hơn thế. Có năm cách đơn giản để củng cố hệ bạch huyết.
Công Thành biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times