Telomeres: Bằng chứng cho thấy cách lựa chọn thực phẩm ảnh hưởng đến tuổi thọ chúng ta
Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn có thể đo lường được tác động của thực phẩm mình ăn đối với tuổi thọ bản thân? Liệu bạn có thay đổi ý định lấy túi khoai tây chiên đó không?
Một nghiên cứu đã tiết lộ cách mỗi thực phẩm khác nhau ảnh hưởng đến chiều dài telomere của chúng ta. Các nhà khoa học coi những đầu mút tí hon ở hai đầu của mỗi nhiễm sắc thể người là một dấu ấn đáng tin cậy về độ tuổi sinh học và nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến tuổi tác.
Tầm quan trọng của telomere
Từ telomere có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp, “telos” nghĩa là đầu tận và “meros” nghĩa là phần; các telomere là những phần đầu tận bảo vệ cho các nhiễm sắc thể.
Các telomere chụp lên đầu tận của các nhiễm sắc thể và bảo vệ DNA của chúng ta nhờ ngăn các nhiễm sắc thể bị phá vỡ và hợp nhất với những nhiễm sắc thể khác trong quá trình sao chép.
Mỗi lần một tế bào phân chia, telomere của nó sẽ ngắn dần, và vòng đời của tế bào giảm, dẫn đến sự lão hóa tế bào. Các telomere ngắn có liên quan với tăng nguy cơ bị bệnh tim mạch, ung thư và các bệnh lý chuyển hóa khác.
Nhiều nhà khoa học coi telomere là đồng hồ phân tử của tế bào vì khi tuổi càng cao, telomere của chúng ta càng ngắn. Nhưng không phải telomere của ai cũng ngắn đi với tốc độ như nhau, một số người có telomere ngắn nhanh hơn. Các nhà khoa học đã cố tìm hiểu xem điều này diễn ra như thế nào và lý do tại sao.
Telomere sẽ ngắn dần một cách tự nhiên khi chúng ta già đi, nhưng nghiên cứu đã chỉ ra chúng cũng ngắn đi do hút thuốc, uống rượu, căng thẳng kinh niên, ít tập thể dục, béo phì và cách ăn uống kém lành mạnh.
Các thực phẩm ảnh hưởng đến chiều dài telomere
Một bài viết của Tiến sĩ Dean Ornish và các tác giả khác đăng trên tập san The Lancet Oncology (Ung Thư Học Lancet), đã cho thấy thay đổi lối sống một cách toàn diện, bao gồm cách ăn uống, hoạt động, căng thẳng và trợ giúp xã hội, có tác động lên hoạt tính của enzyme telomerase và chiều dài của telomere.
Telomerase là enzyme có thể khôi phục telomere và có tiềm năng làm chậm sự già hóa của tế bào.
Những người tham gia nghiên cứu tuân theo cách ăn uống gồm thực phẩm toàn phần, protein thực vật, rau, quả, ngũ cốc không tinh chế, rau họ đậu và ít chất béo (khoảng 10% calorie) và carbohydrate tinh chế.
Nghiên cứu phát hiện vào thời điểm cuối của khoảng thời gian theo dõi 5 năm, các telomere trong nhóm chứng (nhóm không can thiệp) ngắn đi (quá trình này là bình thường sau 5 năm), còn trong nhóm có can thiệp lối sống, các telomere lại dài lên.
Một tổng quan đăng trên tập san Metabolism (Chuyển hóa) tuyên bố rằng tiêu thụ các thực phẩm dồi dào chất chống oxy hóa, có nguồn gốc thực vật sẽ giúp duy trì chiều dài telomere.
Tổng quan này cũng cho rằng, nếu ngược lại tiêu thụ các chất béo bão hòa và toàn phần, ngũ cốc bột tinh chế, thịt, sản phẩm từ thịt, đồ uống có đường sẽ liên quan đến sự rút ngắn chiều dài telomere.
Một phân tích cắt ngang và dọc kéo dài 5 năm được công bố trên American Journal of Clinical Nutrition (tập san Dinh Dưỡng Lâm Sàng Hoa Kỳ) cho biết các yếu tố về cách ăn uống ảnh hưởng đến chiều dài của telomere thông qua các cơ chế liên quan đến quá trình oxy hóa và viêm.
Nghiên cứu này có mục tiêu là xác định liệu sau 5 năm, tình trạng viêm liên quan đến cách ăn uống có thể thay đổi tốc độ rút ngắn telomere hay không.
Phân tích cho thấy cách ăn uống nhiều chất chống viêm có thể làm chậm sự ngắn đi của telomere. Thêm nữa là sau 5 năm theo dõi, những người tham gia nghiên cứu ăn nhiều thực phẩm viêm có nguy cơ tăng quá trình rút ngắn telomere nhanh gấp đôi so với người ăn thực phẩm chống viêm.
Một nghiên cứu đăng trên tập san Public Health Nutrition (Dinh Dưỡng Sức Khoẻ Công Cộng) đã tạo ra chỉ số viêm trong cách ăn uống, để so sánh khả năng gây viêm trong cách ăn uống giữa các quần thể khác nhau. Người ta thấy một số thực phẩm có tính viêm mạnh nhất là chất béo bão hòa, cholesterol và chất béo chuyển hóa.
Theo National Health Service (Dịch vụ Y tế Quốc gia) của Anh, chất béo bão hòa được tìm thấy trong bơ, bơ ghee, mỡ bò, mỡ cừu, mỡ heo, dầu dừa và dầu cọ, bánh ngọt, bánh quy, miếng thịt mỡ, xúc xích, thịt xông khói, các loại thịt đã qua chế biến như salami, xúc xích chorizo, pho mát và thịt xông khói Ý.
Cholesterol cũng gây viêm. Cholesterol là một steroid có trong các mô động vật. Nguồn thực phẩm chứa cholesterol chủ yếu bao gồm lòng đỏ trứng, tôm, thịt bò, thịt heo, thịt gia cầm, phô mai và bơ.
Chất béo chuyển hóa là một loại thực phẩm khác có khả năng gây viêm cao, được cho là có khả năng đẩy nhanh quá trình rút ngắn telomere của chúng ta. Theo bệnh viện Mayo Clinic, các loại thực phẩm có chứa chất béo chuyển hóa bao gồm bánh nướng thương mại, mỡ trừu (shortening), bỏng ngô lò vi sóng, bánh pizza đông lạnh, bột nhào đông lạnh, thực phẩm chiên, kem cà phê không chứa sữa và bơ thực vật.
Ngược lại, một trong những thành phần thực phẩm chống viêm tốt nhất là chất xơ.
Trong một nghiên cứu về chất xơ và chiều dài telomere trong cách ăn uống ở 5,674 người trưởng thành tại Hoa Kỳ, các nhà nghiên cứu phát hiện thấy cứ tăng thêm một gam chất xơ trên 100 calorie trong cách ăn uống, telomere sẽ dài thêm 8.3 cặp base.
Kết quả phân tích tổng hợp trong cùng một nghiên cứu chỉ ra rằng cứ tăng tiêu thụ 10g chất xơ thì nguy cơ tử vong sẽ giảm 11%. Khi so sánh những người trưởng thành ăn nhiều chất xơ với những người ăn ít, tỷ lệ tử vong ở những người ăn nhiều chất xơ thấp hơn 23%.
Đại Hải biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc tại The Epoch Times