Tuyên Bố Về Hỗ Trợ Quyền Cha Mẹ và Tự Do Y Tế từ các chuyên gia y tế
Bức thư này đã được ký tên bởi Tiến sĩ Rachel Corbett, Tiến sĩ George Fareed, Tiến sĩ Melanie Gisler, Tiến sĩ Brian Hooker, Tiến sĩ Pierre Kory, Tiến sĩ Katarina Lindley, Tiến sĩ James Lyons-Weiler, Tiến sĩ Robert Malone, Tiến sĩ. Peter McCullough, Tiến sĩ Liz Mumper, Tiến sĩ Meryl Nass, Tiến sĩ David Rasnick, Tiến sĩ Richard Urso và hàng trăm bác sĩ, nhà khoa học và chuyên gia y tế khác.
Các tác giả đầu tiên của bức thư này là các bác sĩ y khoa Michael Kane và Meryl Nass, và bức thư đang được tổ chức Children’s Health Defense gửi đi các nơi. Các chuyên gia y tế và các nhà khoa học có thể ký vào bức thư. Bức thư này là bản tuyên bố cơ bản về các nguyên tắc nên là cốt lõi về y tế, nhưng kể đã bị loại bỏ hoặc đã bị vi phạm từ khi bắt đầu cuộc khủng hoảng.
Tóm tắt một số nội dung chính
- Không có cơ sở khoa học chính đáng nào cho việc tiếp tục áp đặt người dân phải thực hiện các lệnh cấm liên quan đến COVID-19 trong năm 2023 và những năm tiếp theo.
- Miễn trừ khẩu trang và vaccine phải được thực hiện dựa trên các khuyến cáo thận trọng của bác sĩ và bệnh nhân, điều này ngược với những chỉ thị theo kiểu “một quyết định phù hợp cho tất cả mọi người” của Chính phủ.
- Quyền và quyết định của cha mẹ phải được bảo lưu để bảo đảm sức khỏe và hạnh phúc của con cái.
- Không được vi phạm quyền tự do ngôn luận giữa các chuyên gia y tế với các bệnh nhân và công chúng.
Sự đồng ý có hiểu biết là cơ sở của y đức. Mô hình quan hệ giữa bệnh nhân và bác sĩ – mà trong đó hai bên cùng nhau chia sẻ, thảo luận để đưa ra quyết định là mô hình được các cơ sở y tế của chính phủ Hoa Kỳ và Vương quốc Anh mong muốn nhất. Bệnh nhân muốn được đưa ra quyết định y tế của riêng họ và họ có quyền hợp pháp để làm như vậy. Họ mong muốn các bác sĩ chia sẻ kiến thức với họ để tự đưa ra những lựa chọn tốt nhất cho bản thân.
Kết quả tất yếu của sự đồng ý có hiểu biết là các quyết định y tế phải được từng bệnh nhân đưa ra dựa trên hoàn cảnh và lợi ích cá nhân tốt nhất của họ. Hình thức y tế theo kiểu ‘một quyết định phù hợp cho tất cả’ là không phù hợp với các nguyên tắc này. Nó phủ định sự đồng ý có hiểu biết và quyền tự chủ cá nhân.
Trong ba năm qua, chúng ta đã trải qua những can thiệp chưa từng có trong tiền lệ vào mô hình quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân bởi chính phủ. Nhiều khoản ưu đãi tài chính đáng kể đã được tài trợ cho ngành y tế và các nhà cung cấp dịch vụ y tế để nghiên cứu một số phương pháp điều trị nhất định và không sử dụng một số phương pháp thông thường khác.
Khi các nghiên cứu (được thực hiện từ các khoản tài trợ tài chính này) không đạt được mục đích là chích ngừa phổ cập thì nhiều chỉ thị áp đặt đã được ban hành. Một trong các chỉ thị đó là yêu cầu chích ngừa vaccine COVID-19 cho nhân viên chăm sóc sức khỏe của những người đã nhận được các khoản thanh toán từ Chương trình bảo hiểm y tế quốc gia Hoa Kỳ Medicare sau khi chúng ta biết rằng vaccine không bảo vệ bệnh nhân hay đồng nghiệp khỏi bị lây nhiễm COVID-19.
Các khoản trợ cấp cho các trường học đi kèm với các quy định về đeo khẩu trang trong trường học. Những biện pháp khuyến khích và trừng phạt mới được áp đặt cho việc không tuân thủ các chỉ thị đã ban hành này là đi ngược lại với y đức đã được thiết lập từ lâu, đặc biệt là đi ngược với sự đồng ý có hiểu biết và mối quan hệ chia sẻ quyết định giữa bác sĩ và bệnh nhân. Tất cả các biện pháp áp đặt này cần phải được chấm dứt.
Các áp đặt liên quan đến COVID-19
Mọi người đều đồng ý rằng tất cả các loại vaccine COVID-19 hiện có đều không ngăn được sự lây lan virus và chỉ làm giảm số lượng các ca bệnh trong thời gian ngắn. Chỉ sau vài tháng thì chính những người đã được chích ngừa lại trở nên dễ bị nhiễm COVID-19 hơn những người không được chích ngừa. Do đó, về mặt khoa học và logic thì việc áp đặt chích ngừa vaccine COVID-19 là không có hiệu quả trong việc bảo vệ người dân.
Để đối phó với vấn đề này, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) đã điều chỉnh các hướng dẫn của mình để quản lý COVID-19, nhẹ nhàng gợi ý rằng cả người Mỹ đã được chích ngừa và chưa được chích ngừa nên được đối xử giống nhau trong việc cách ly, kiểm dịch và xét nghiệm. Tuy nhiên, CDC vẫn tiếp tục khuyến khích người Mỹ nên chích thêm liều bổ sung vaccine COVID-19 và ủng hộ các quy định bắt buộc về vaccine do liên bang áp đặt.
Về cơ bản, cho đến nay, tất cả mọi người dân ở Hoa Kỳ đều đã bị phơi nhiễm COVID-19 và gần như tất cả mọi người đều đã bị nhiễm COVID ít nhất một lần. Chúng tôi dự đoán rằng Hoa Kỳ sẽ vẫn phải tiếp tục đối mặt với các biến thể của COVID-19 đang phát triển, và chúng tôi cũng dự đoán rằng mức độ nghiêm trọng của COVID-19 sẽ tiếp tục suy yếu theo thời gian.
Tuy nhiên, bệnh nhân và bác sĩ vẫn không được phép lựa chọn phương pháp điều trị COVID-19 phù hợp nhất với từng bệnh nhân. Các chỉ thị mang tính áp đặt phải được kết thúc và bệnh nhân cũng như bác sĩ phải xác nhận lại quyền con người và quyền hợp pháp của họ để xác định dịch vụ chăm sóc y tế mà mỗi bệnh nhân có quyền được hưởng.
Miễn trừ chích vaccine và đeo khẩu trang
Bệnh nhân cũng là người. Họ cũng sẽ bị hứng chịu những rủi ro khác nhau khi chích ngừa và có thể gặp các vấn đề về y tế hoặc tâm lý khiến việc đeo khẩu trang là không an toàn. Việc giả vờ rằng những khác biệt này không tồn tại là phủ nhận thực tế. Trong lịch sử, các bác sĩ có thể cho phép không đeo khẩu trang và không cần chích ngừa vì các bác sĩ là những người được coi là có kiến thức và khả năng phán đoán tốt nhất trong việc đưa ra các quyết định như vậy.
Mặc dù theo luật thì mọi tiểu bang đều chấp nhận rằng các bác sĩ có thể cấp miễn trừ y tế đối với vaccine và khẩu trang, nhưng nhiều sở y tế và giáo dục đã thay thế thẩm quyền của bác sĩ và bắt đầu vô hiệu hóa các miễn trừ này. Các tiểu bang cũng đã tiến hành điều tra và trừng phạt các bác sĩ vì đã ban hành các miễn trừ y tế này. Có vẻ như các chính phủ liên bang và tiểu bang muốn tự coi mình là trọng tài của những quyết định y tế này. Những điều này cần phải được chấm dứt.
Quyền của cha mẹ
Các tiểu bang quyết định độ tuổi đồng ý (khi đến tuổi đó, trẻ được phép tự ra quyết định cho cá nhân của mình) và cho đến khi đạt đến độ tuổi đó thì cha mẹ hoàn toàn chịu trách nhiệm về con cái của họ, chỉ có một vài ngoại lệ hạn chế. Nhưng trong hai năm qua, chúng ta đã thấy một xu hướng nguy hiểm. Yêu cầu về việc phải có ý kiến đồng ý trước của cha mẹ thì mới chích vaccine cho trẻ em chưa đủ độ tuổi theo quy định đã bị một số tiểu bang bỏ qua.
Việc này đã xảy ra tại Hoa Thịnh Đốn, theo lệnh của Thị trưởng và Hội đồng thành phố thì đối với trẻ em từ 11 tuổi trở lên. Với điều luật đã được thông qua này, trên thực tế cho phép trẻ em có những quyết định về y tế mà cha mẹ không thể biết được. Trong khi Quốc hội, cơ quan giám sát luật ở Đặc khu Columbia, lẽ ra có thể nói không, nhưng thay vào đó, Quốc hội đã không hành động. Vào tháng 11/2021, một vụ kiện về điều khoản này của luật đã thắng và vì vậy luật này không còn hiệu lực ở Hoa Thịnh Đốn.
Tuy nhiên, vào đầu năm 2021, tại Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania; tại San Francisco, tiểu bang California; và Quận Kings, tiểu bang Washington, các quan chức y tế địa phương đã ban hành hướng dẫn cho phép các nhà cung cấp dịch vụ y tế địa phương chích ngừa cho trẻ em từ 12 tuổi mà không cần sự cho phép của cha mẹ, và cho đến nay hướng dẫn này vẫn còn hiệu lực.
Đây là hành vi chiếm đoạt quyền của phụ huynh một cách nguy hiểm bởi các cơ quan y tế công cộng địa phương. Hành vi này cũng vi phạm cả luật tiểu bang và liên bang. Hơn nữa, gần đây đã dấy lên một xu hướng đi kèm là các chuyên gia “y tế-pháp lý” khẳng định trong các bài báo đã xuất bản trên tạp chí rằng trẻ 12 tuổi đã đủ chín chắn để tự quyết định các thủ tục y tế của mình.
Hầu hết các tiểu bang không cho phép trẻ em được thực hiện các hành động liên quan đến việc nhuộm da hoặc xăm mình khi chưa đủ tuổi thành niên nên việc bỏ qua cha mẹ và cho phép trẻ em chưa đủ tuổi quyết định những gì được chích vào chúng là không phù hợp với luật pháp tiểu bang, y đức, lẽ thường và chăm sóc y tế tối ưu cho trẻ em. Những điều này cần phải được chấm dứt.
Tự do ngôn luận cho các chuyên gia y tế
Ngày nay, công kích quyền tự do ngôn luận của các bác sĩ và nhà khoa học y tế đang xảy ra trên khắp nước Mỹ. Trong tiến trình nghiên cứu và phát triển kiến thức khoa học vẫn thường xảy ra các cuộc tranh luận và sự bất đồng với các khuyến nghị về sức khỏe cộng đồng của liên bang đã dẫn đến sự kiểm duyệt và quản lý hà khắc. Các bác sĩ đã bị điều tra, bị tước chứng chỉ của hội đồng chuyên môn và thậm chí bị tước giấy phép hành nghề y tế vì đã công khai lên tiếng chống lại các hướng dẫn của liên bang.
Tuy nhiên, không có cơ quan y tế nào là không thể phạm sai lầm và đại dịch COVID-19 đã chứng minh điều này. Trên thực tế, cả Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), NIH và CDC đã nhiều lần thay đổi các chính sách, hướng dẫn và khuyến nghị về COVID-19 trong suốt thời kỳ đại dịch.
Theo quy định tại Tu chính án thứ nhất và các luật của tiểu bang thì việc đàn áp quyền tự do ngôn luận của các chuyên gia y tế là bất hợp pháp, và việc làm này cần phải chấm dứt ngay lập tức.
Bức thư này tiếp tục được các chuyên gia y tế và các nhà khoa học trên khắp thế giới ký tên. Quý vị xem danh sách chữ ký ngày càng tăng.
Theo Brownstone Institute.
Khánh Nam biên dịch.
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times