Tình huống của Nhật Bản là lời cảnh báo cho Hoa Kỳ
Tuần trước (29/04-05/05), Nhật Bản đã chứng kiến đồng tiền của họ, đồng yên, hạ xuống mức thấp kỷ lục khi đơn vị tiền tệ này nhanh chóng mất giá so với đồng USD và các loại tiền tệ khác trên thế giới. Sự việc này đã thu hút sự chú ý của thị trường tài chính và các nhà quan sát khác, và — ở một số khu vực — đã gây ra phản ứng hoảng loạn. Người ta lo ngại rằng Nhật Bản, một quốc gia từng một thời hùng mạnh hiện đang ngày càng bị xem là “con bệnh Á Châu,” đã tiến gần bờ vực của một cuộc khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng thị trường tài chính.
Cách đây không lâu, Nhật Bản từng khiến cả thế giới phải ghen tị. Sự phục hồi thời hậu chiến của Nhật Bản và phép màu kinh tế kéo theo sau đó đã tạo ra nền kinh tế lớn thứ hai thế giới chỉ sau Hoa Kỳ vào những năm 1980. Nhiều tập đoàn đa quốc gia của Nhật Bản được giới kinh doanh ngưỡng mộ nhờ sự phát triển, tính hiệu quả, và kỷ luật quản lý của họ. Chính phủ Nhật Bản và các doanh nghiệp lớn đã liên kết chặt chẽ với nhau theo một công thức dường như là không thể ngăn cản. Tràn đầy tiền mặt và lòng tin, các công ty và nhà đầu tư Nhật Bản đã tích cực mở rộng, thâu tóm thị phần, mua các tài sản danh giá, những tài nguyên, cũng như các hoạt động kinh doanh ở Hoa Kỳ và những nơi khác. Giống như những lo ngại về Trung Quốc ngày nay, vào thời đó cũng đã có nhiều lo ngại nảy sinh về việc Nhật Bản sẽ vượt qua Hoa Kỳ để trở thành quốc gia dẫn đầu toàn cầu về kinh tế.
Nhưng những nỗi sợ này là vô căn cứ. “Tập đoàn Nhật Bản” là một ngôi nhà được xây dựng trên một nền móng hỏng hóc. Nguồn tiền rẻ được nới lỏng quá mức, cùng đòn bẩy nợ cao trên khắp các lĩnh vực tài chính và doanh nghiệp, đã tạo điều kiện cho hàng loạt bong bóng thị trường chứng khoán và địa ốc mà cuối cùng đã đổ vỡ vào năm 1990. Sự sụp đổ này đã dẫn đến một cuộc suy thoái mà từ đó Nhật Bản chưa bao giờ thoát ra được để hồi phục, ngay cả khi đã là ba thập niên sau. Câu hỏi là, tại sao Nhật Bản lại chưa thể hồi phục? Đây là một bài học cho Hoa Kỳ.
Việc chính phủ hết lần này đến lần khác cứu trợ các công ty tài chính và công nghiệp trên bờ vực phá sản đã khiến cuộc khủng hoảng ở Nhật Bản kéo dài thêm. Các nhà lãnh đạo cũng như các chính sách của Nhật Bản đã lặp đi lặp lại việc ngăn chặn sự sụp đổ mang tính sáng tạo (creative destruction), mà — nếu như lộ trình và việc làm trong sạch hệ thống của quá trình này đã được cho phép diễn ra — thì có lẽ sẽ trở thành một yếu tố kích thích to lớn đối với tinh thần kinh doanh và sức sống kinh tế. Tuy nhiên, thay vì cho phép chủ nghĩa tư bản phát huy tác dụng, thì chính phủ Nhật Bản lại đẩy quốc gia này vào một thế hệ trì trệ.
Kết quả là, Nhật Bản đã phải chịu đựng ba “thập niên mất mát” với tốc độ tăng trưởng kinh tế yếu, sức mua giảm sút, mức sống ngày càng thấp, mất uy tín và ảnh hưởng trong cộng đồng toàn cầu, cùng một dân số già đi mà nguồn lực của quốc đảo này đang phải chật vật để chu cấp.
Nhật Bản hiện có tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP cao nhất thế giới, ở mức 264%. Các ngân hàng Nhật Bản đang là những xác sống biết đi, không thể tăng trưởng hoặc cho vay vì họ chưa bao giờ tái cấu trúc lại bảng cân đối kế toán của mình để thanh lý đống nợ to lớn còn sót lại từ những khoản nợ quá mức của những thập niên trước. Ngân hàng Nhật Bản (BOJ, ngân hàng trung ương của Nhật Bản) nắm giữ trái phiếu chính phủ và các tài sản khác tương đương 127% GDP của nước này, tỷ lệ nắm giữ cao nhất so với bất kỳ ngân hàng trung ương nào trên thế giới. Danh mục đầu tư này đã gây ra khoản lỗ chưa thực hiện hơn 70 tỷ USD cho BOJ chỉ trong sáu tháng của năm 2023.
Đồng yên Nhật đã mất giá hơn 30% so với đồng USD chỉ trong ba năm kể từ năm 2021. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008–2009, đồng yên đã mất 75% giá trị so với vàng. Vì Nhật Bản phụ thuộc nhiều vào nhập cảng, tình trạng mất sức mua này đã trực tiếp dẫn đến mức sống của người dân Nhật Bản bị hạ xuống đáng kể. Về lý thuyết, Nhật Bản có thể trợ giúp cho đồng yên bằng cách tăng lãi suất, nhưng đây là hành động không thể thực hiện được về mặt chính trị, tiền tệ, và tài khóa.
Chính sách tiền tệ nới lỏng trong nhiều thập niên là thủ phạm chính và là nguyên nhân dẫn đến vụ đắm tàu quay chậm này.
Ngân hàng Nhật Bản đã chỉ bắt đầu tăng lãi suất hồi tháng Ba năm nay, khoảng ba năm sau khi Hoa Kỳ và Liên minh Âu Châu chấm dứt chính sách tiền tệ nới lỏng của họ. Đây là lần đầu tiên BOJ tăng lãi suất kể từ năm 2007, một hành động đưa lãi suất chính thức ra khỏi vùng âm. Tuy nhiên, với lạm phát hiện đang mức gần 2%, lãi suất chính sách ngắn hạn từ 0 đến 0.1% có nghĩa là lãi suất thực vẫn ở mức âm 2%. Mức lãi suất thực âm này đóng vai trò như một khoản thuế bổ sung đối với các gia đình Nhật Bản và là một biện pháp kích thích nhằm thúc đẩy chi tiêu hôm nay thay vì tiết kiệm cho ngày mai.
Về căn bản tiền là miễn phí ở Nhật Bản, nhưng không ai có đủ khả năng để vay, ngay cả khi các ngân hàng có thể cho vay được. BOJ và toàn bộ hệ thống ngân hàng đang ngấp nghé trong tình trạng mất khả năng thanh toán. Chỉ có chính sách lãi suất 0% kéo dài hàng thập niên của Nhật Bản mới cho phép hệ thống tài chính suy yếu của nước này tiếp tục đứng vững sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và ảnh hưởng của việc đóng cửa nền kinh tế do COVID. Nhật Bản không thể đủ khả năng tăng lãi suất danh nghĩa cao hơn mức giới hạn 0 để trợ giúp cho đồng tiền của họ mà không làm tăng đáng kể chi phí trả nợ và gây thua lỗ. Làm như vậy sẽ khiến cho toàn bộ hệ thống han gỉ đó đổ sụp xuống.
Một nền kinh tế đang phát triển có thể giúp giảm bớt gánh nặng, nhưng nền kinh tế Nhật Bản đang suy yếu. Thực tế này không có gì đáng ngạc nhiên, vì tăng trưởng đáng kể là không thể nào xảy ra dưới gánh nặng của hàng núi nợ nần. GDP Nhật Bản đã giảm 0.8% trong quý 3 và đạt mức tăng trưởng 0.1% trong quý 4/2023. Do đó, trong khi quốc gia này hầu như mấp mé thoát khỏi suy thoái về mặt kỹ thuật (thoát khỏi tình trạng GDP giảm trong hai quý liên tiếp), thì Nhật Bản vẫn chưa đạt mức tăng trưởng GDP trên 2% trong hơn 20 năm, ngoại trừ hai quý phục hồi sau những cú sốc toàn cầu về cuộc khủng hoảng tài chính và dịch bệnh COVID.
Nhật Bản đại diện cho một thảm họa dân số học đang diễn tiến dần dần. Nhật Bản có dân số trung bình già nhất so với bất kỳ quốc gia lớn nào trên thế giới và tỷ lệ sinh thấp nhất ở mức 1.37. Tỷ lệ sinh của Nhật Bản đã ở dưới mức tỷ lệ thay thế dân số tối thiểu (2.1) trong 40 năm, đồng nghĩa với việc đất nước này vừa già hóa vừa mất năng suất kinh tế, và có lẽ đã quá muộn để đảo ngược xu hướng đó.
Toàn bộ quá trình này là một lời cảnh báo nghiêm khắc đối với Hoa Kỳ.
Chính phủ Mỹ đang đuổi theo Nhật Bản về danh hiệu quốc gia mắc nợ nhiều nhất. Các quốc gia mắc nợ quá nhiều không thể phát triển. Với nợ chính phủ liên bang trên GDP là 129%, một tỷ lệ đang tăng nhanh, Hoa Kỳ hiện là quốc gia mắc nợ nhiều thứ tư trên thế giới. Nợ hiện đang tăng nhanh hơn vì chính phủ liên bang từ chối cắt giảm chi tiêu thâm hụt, bao gồm thêm 1.7 ngàn tỷ USD vào năm 2023, khoản tiền này phải được tài trợ bằng khoản nợ mới, cũng như chi phí lãi vay hơn 1 ngàn tỷ USD. Khoản nợ này — và chi phí để trả lãi suất vay nợ — đóng vai trò là một lực cản đối với nền kinh tế của chúng ta. Chi tiêu thâm hụt và sự vay mượn cần thiết để hậu thuẫn cho mức chi tiêu này sẽ lấn át đầu tư và tài trợ của thị trường tư nhân.
Thay vì để cho có thêm ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán và các công ty thua lỗ chịu phá sản, thì kể từ ít nhất là cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ đã thúc đẩy các mô hình kinh doanh tồi tệ — và làm tăng giá trị tài sản của những khoản đầu tư vô giá trị — bằng cách trợ cấp cho chi phí vốn trở nên thấp hơn nhiều so với lãi suất tự nhiên. Ở một quốc gia đã từng là đất nước mẫu mực làm gương và là nơi xuất cảng chủ nghĩa tư bản trong hơn hai thế kỷ như vậy, các chính sách mang tính xã hội chủ nghĩa của chính phủ Hoa Kỳ đang ngăn cản chủ nghĩa tư bản khởi tác dụng trong nước. Tình trạng này cuối cùng sẽ xâm chiếm thị trường tài chính và nền kinh tế của chúng ta, giống như những gì đã xảy ra với Nhật Bản.
Không chỉ chính sách tài chính và tiền tệ thiển cận mới đe dọa khả năng cạnh tranh của Hoa Kỳ.
Nếu xu hướng giữ thái độ ngày càng xa lánh của người Mỹ đối với tầm quan trọng của hôn nhân và trẻ em không đảo ngược một cách đáng kể, thì Hoa Kỳ sẽ phải đối mặt với số phận giống như Nhật Bản về mặt dân số. Tỷ lệ sinh ở Hoa Kỳ đã giảm ít nhất là kể từ năm 2008 và đạt mức thấp kỷ lục 1.62 vào năm 2023. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với tỷ lệ thay thế và do đó không bền vững.
Những người cấp tiến đã sử dụng tỷ lệ sinh đang giảm và dân số già hóa làm cái cớ để biện minh cho việc để xảy ra tình trạng nhập cư bất hợp pháp hàng loạt, nhưng đây chỉ là một luận điểm đánh lạc hướng mà thôi. Đưa hàng chục triệu người nhập cư không có tay nghề, không có giáo dục, và không đồng nhất về mặt văn hóa vào Hoa Kỳ không phải là một lợi ích mà là một gánh nặng không thể giải quyết được về cơ sở hạ tầng xã hội, làm rút cạn năng suất kinh tế, và gây ra một khoản thuế không thể gánh nổi đối với những công dân hợp pháp.
Vân Du biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times