Sự sụp đổ sắp tới của hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ
Từ đầu tháng Mười năm ngoái (2022), tôi đã cảnh báo về một cuộc khủng hoảng ngân hàng sắp xảy đến. Cảnh báo của tôi dựa trên sự sụp đổ của các quỹ hưu trí Anh hồi cuối tháng Chín, vốn chỉ được cứu vãn nhờ các hành động nhanh chóng của Ngân hàng Anh (BoE), và dựa trên các phân tích của chúng tôi về tình trạng của hệ thống ngân hàng Âu Châu.
Trên thực tế, chúng tôi cũng đã đưa ra một cảnh báo về sự xuất hiện của một cuộc khủng hoảng ngân hàng Âu Châu ngay từ hồi tháng 05/2020, cuộc khủng hoảng mà sau đó đã được đẩy lùi nhờ hoãn nợ và các biện pháp trợ giúp đặc biệt khác do chính phủ cung cấp và được các ngân hàng vội vã thi hành. Những biện pháp này đã kéo dài các hệ thống ngân hàng của châu Âu và Hoa Kỳ trong gần ba năm, cho đến khi sự sụp đổ của các ngân hàng Silicon Valley Bank (SVB), Signature Bank, First Republic Bank và đại ngân hàng Thụy Sĩ Credit Suisse tên tuổi phá vỡ sự bình yên không dễ gì có được vào tháng Ba/tháng Tư năm nay.
Sai lầm duy nhất trong lời cảnh báo của tôi là tôi đã cho rằng châu Âu sẽ là tâm điểm của cuộc khủng hoảng ngân hàng. Dự báo này dựa trên giả định rằng các ngân hàng Âu Châu vốn dĩ đã suy yếu sẽ bị ảnh hưởng bởi hàng loạt các vụ phá sản doanh nghiệp do lạm phát nhanh, giá năng lượng tăng cao, và lãi suất tăng nhanh. May mắn thay, mùa đông ở châu Âu hoá ra đã dễ chịu một cách bất ngờ, giúp xoa dịu cuộc khủng hoảng năng lượng và do đó đã cứu được nền kinh tế cùng các ngân hàng của chúng ta. Làn sóng phá sản doanh nghiệp (mà chúng tôi đã cảnh báo là sẽ xảy ra vào tháng 12/2019) đã được trì hoãn lại. Tuy nhiên, quý 2 năm nay đã là quý thứ 6 liên tiếp có số vụ phá sản doanh nghiệp tăng lên ở châu Âu; một xu hướng chưa từng thấy kể từ khi Eurostat bắt đầu thu thập dữ liệu từ hồi năm 2015. Do đó, châu Âu và lĩnh vực ngân hàng của châu Âu đang phải đối mặt với một mùa đông khắc nghiệt. Cơn lũ đang đến rồi.
Tuy nhiên, tôi lại lo lắng nhiều nhất về hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ. Phân tích chuyên sâu mà tôi đã thực hiện từ hồi cuối tháng Hai đã tiết lộ rằng nguy cơ sụp đổ của hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ đang cao hơn bao giờ hết kể từ cuộc Đại Suy Thoái. Chúng tôi hiện đang lập danh sách các ngân hàng Hoa Kỳ an toàn nhất và rủi ro nhất, và thực sự cũng đã đưa ra cảnh báo rút tiền gửi liên quan đến tám ngân hàng Hoa Kỳ, và nhiều ngân hàng khác sau đó. Trong bài viết này, tôi sẽ nêu ra cho quý vị những lý do tại sao tình hình ở Hoa Kỳ lại tệ đến vậy.
Khi các nhà quản lý gây ra hỗn loạn
Hồi đầu tháng Mười (2022), tôi đã lưu ý rằng: Các ngân hàng hiện cũng đang chịu ảnh hưởng bởi các đợt sụt giảm nghiêm trọng trong giá trị trái phiếu chính phủ mà họ đang sử dụng làm làm tài sản bảo đảm. Những đợt sụt giảm giá trị tài sản này có thể dẫn đến đến những tổn thất ngày càng tăng cho các ngân hàng, có thể là với tốc độ, quy mô, và biên độ chưa từng thấy trước đây.
Như chúng ta đã biết, tổn thất ngày càng lớn tại các ngân ngân hàng đã thể hiện ra một cách rõ rệt ở Hoa Kỳ khoảng sáu tháng sau đó, nhưng chúng ta đã rơi vào tình trạng này như thế nào?
Cơ quan quản lý toàn cầu của các ngân hàng thương mại là Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (BCBS), hoạt động dưới sự quản lý của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế, hay BIS. BIS thường được mệnh danh là “ngân hàng trung ương của các ngân hàng trung ương” vì BIS cũng cung cấp hướng dẫn cho các ngân hàng trung ương.
Sau cuộc Đại Khủng Hoảng Tài Chính (năm 2008-2009), Ủy ban Basel đã ban hành bộ quy tắc thứ ba, là bộ các biện pháp dành cho các ngân hàng được cộng đồng quốc tế đồng ý, gọi là Basel III. Khái niệm mang tính đột phá nhất, và cũng có tính hủy diệt nhất là việc tạo ra Hệ số Bảo đảm Thanh khoản, hay LCR. Theo tuyên bố của Nhóm Thống đốc và Giám sát Ngân hàng Trung ương (GHOS), một bộ phận của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng, hệ số này là nhằm bảo đảm “các ngân hàng nắm giữ đủ tài sản lưu động để ngăn ngừa việc ngân hàng trung ương phải trở thành nguồn cho vay đầu tiên.” Các quy tắc thanh khoản của Ủy ban Basel đã đưa công khố phiếu Hoa Kỳ vào danh mục tài sản có tính thanh khoản an toàn nhất, có nghĩa là khi các ngân hàng giữ công khố phiếu Hoa Kỳ trong bảng cân đối kế toán của mình thì loại tài sản này không phải ‘ghi giảm’ giá trị [khi thị trường có những biến động lớn gây giảm giá].
Mặc dù Hệ thống Dự trữ Liên bang vẫn chưa thực hiện hoàn toàn các quy tắc LCR, nhưng họ đã đưa ra các thông báo trước về quy tắc này từ tháng 10/2013, và đề nghị một giai đoạn chuyển tiếp kéo dài từ ngày 01/01/2015 đến 01/01/2017. Mặc dù LCR chưa được thực hiện đầy đủ tại Hoa Kỳ, nhưng có khả năng là giai đoạn chuyển tiếp được đề nghị này đã ảnh hưởng đến cách các ngân hàng thực hiện việc quản lý rủi ro của họ, bởi vì các ngân hàng biết rằng các quy tắc LCR cuối cùng rồi sẽ được thực thi đầy đủ. Hơn nữa, khuôn khổ Basel II, được khai triển tại Hoa Kỳ vào năm 2008, đã đặt ra các trọng số rủi ro khác nhau đối với các loại vốn ngân hàng, chẳng hạn như công khố phiếu Hoa Kỳ có trọng số rủi ro thấp nhất. Do Ủy ban Basel đặt ra và Hệ thống Dự trữ Liên bang thực thi, những hướng dẫn này về căn bản có nghĩa là công khố phiếu được ưu tiên sử dụng làm vốn ngân hàng, bên cạnh tiền mặt và dự trữ tại ngân hàng trung ương.
Do đó, bởi vì tiền mặt và tiền xu cũng như dự trữ của ngân hàng trung ương đang ở tình trạng nguồn cung tương đối thiếu hụt và nằm trong sự kiểm soát hoàn toàn của ngân hàng trung ương, nên các ngân hàng Hoa Kỳ đã tích trữ công khố phiếu. Ví dụ, đây là những gì SVB đã làm. Nghĩa là, họ mua công khố phiếu Hoa Kỳ để đối trọng lại với rủi ro do dòng tiền gửi lớn đổ vào. Ban lãnh đạo SVB đã thực hiện một cách hiệu quả những gì chính phủ mong muốn, và kết quả là ngân hàng này đã sụp đổ.
Tăng trưởng tiền gửi
Cơ sở tiền gửi của Hoa Kỳ đã thay đổi khá mạnh mẽ trong ba năm qua. Đặc biệt, tình trạng này diễn ra đối với các khoản tiền gửi không kỳ hạn có thể rút ra dễ dàng, bao gồm các tài khoản có thể rút tiền mà không cần thông báo trước.
Nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng chóng mặt về tiền gửi không kỳ hạn từ năm 2020 đến năm 2022 là gì? Là do sự kết hợp giữa các biện pháp phong tỏa trong đại dịch virus corona, chi phiếu kích thích chi tiêu và sự kích thích tiền tệ rất lớn của Hệ thống Dự trữ Liên bang.
Khi nền kinh tế Hoa Kỳ bị đóng cửa nhiều lần trong năm 2020 và 2021, người dân có rất ít lựa chọn để sử dụng tiền của mình, tức là để tiêu dùng. Do đó, các tấm chi phiếu kích thích do chính phủ Hoa Kỳ phát hành hầu như không được sử dụng và được tích lũy vào tài khoản của các gia đình, trong khi các ngân hàng phát hành số tiền lớn cho các tập đoàn vay. Ngoài ra, hồi mùa xuân năm 2020, Fed đã thực hiện việc ‘in tiền’ lớn nhất từ trước đến nay khiến bảng cân đối kế toán của họ tăng từ khoảng 4 ngàn tỷ lên hơn 7 ngàn tỷ USD chỉ trong bốn tháng! Lượng tiền lưu thông ở Hoa Kỳ đã bùng nổ.
Cuối cùng khi nền kinh tế đã mở cửa, thì lượng tiền trong lưu thông tăng mạnh đã gây ra lạm phát (chúng tôi đã cảnh báo hồi tháng 03/2021). Lạm phát buộc Fed phải bắt đầu chu kỳ tăng lãi suất mạnh nhất từ trước đến nay vào tháng 04/2022. Chỉ trong hơn một năm, Lãi suất Quỹ Liên bang đã tăng từ 0.08% lên hơn 5%. Đương nhiên, lợi suất của công khố phiếu Hoa Kỳ cũng tăng theo đó. Vấn đề đối với các ngân hàng là lợi suất và giá trái phiếu có mối quan hệ nghịch đảo. Lợi suất càng cao thì giá trái phiếu càng thấp và ngược lại. Đây là phần toán học tuyệt vời trong định giá trái phiếu.
Nhưng than ôi, sự gia tăng quá nhanh của lợi suất công khố phiếu là một thảm họa đối với các ngân hàng. Ví dụ: chỉ sau hai năm, lợi suất công khố phiếu kỳ hạn 2 năm của Hoa Kỳ đã tăng lên 20 lần. Lợi suất công khố phiếu tăng có nghĩa là giá trị cơ bản của công khố phiếu bị sụt giảm và các ngân hàng từng mua công khố phiếu với lợi suất gần bằng 0 (nghĩa là với giá công khố phiếu rất cao) phải chịu tổn thất nặng nề. Những tài sản này được gán nhãn là “lỗ chưa thực hiện,” bởi vì các ngân hàng xem công khố phiếu là tài sản nắm giữ đến ngày đáo hạn. Nghĩa là các ngân hàng giữ công khố phiếu đến ngày đáo hạn, sau đó Bộ Ngân khố trả lại tiền gốc của công khố phiếu và trả lãi. Vì vậy, các khoản lỗ này chưa phải là “lỗ thực” trừ phi ngân hàng buộc phải bán công khố phiếu trước ngày đáo hạn, và đó chính xác là những gì đã xảy ra.
Hoa Kỳ đã rơi vào tình trạng ‘lặng lẽ’ rút tiền hàng loạt khỏi ngân hàng kể từ mùa hè năm 2022, khi người gửi tiền bắt đầu rút tiền gửi ra và rồi gửi đi, ví dụ, vào các quỹ thị trường tiền tệ bán lẻ mang lại lợi suất cao hơn tài khoản ngân hàng. Trong tháng Ba, việc rút tiền này đã leo thang thành một cuộc tháo chạy. Cuộc tháo chạy tiền gửi này đã đốt sạch lượng tiền mặt dự trữ và các tài sản thanh khoản cao của nhiều ngân hàng, buộc họ phải bán công khố phiếu với mức giá thua lỗ đáng kể.
Và rồi tin tức rằng SVB phải chịu lỗ nặng từ những giao dịch bán công khố phiếu như vậy đã lan truyền, và sự hoảng loạn đã xảy ra sau đó.
Người ta ước tính rằng đến cuối năm 2022, các ngân hàng Hoa Kỳ đã có tổng số lỗ chưa thực hiện là gần 2 ngàn tỷ USD. Khoản lỗ chưa thực hiện hết sức lớn này là một lý do khiến việc rút tiền hàng loạt tại SVB lan rộng, buộc chính phủ Hoa Kỳ phải can thiệp mạnh mẽ.
Phản ứng hoảng loạn của các nhà chức trách
Việc rút tiền hàng loạt khỏi SVB đã bắt đầu từ hôm thứ Sáu (10/03/2023), và vào hôm Chủ Nhật (12/03), chính phủ Hoa Kỳ đã kết luận rằng có nguy cơ xảy ra một cuộc rút tiền hàng loạt khỏi các ngân hàng trên toàn quốc. Để ngăn chặn nguy cơ này, họ đã nghĩ ra một chiến lược đặc biệt gồm ba bước.
Bước thứ nhất là ra một tuyên bố chung từ Bộ Ngân khố, Tổng công ty Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC) và Fed, thông báo rằng tất cả tiền gửi của người gửi (kể cả tiền gửi không được bảo hiểm) tại SPV và Signature Bank đều được bảo đảm. Bước thứ hai, Hệ thống Dự trữ Liên bang cung cấp thanh khoản trị giá 300 tỷ USD vào hệ thống và thông báo rằng họ sẽ cung cấp “nguồn vốn bổ sung” cho tất cả các ngân hàng theo Chương trình Cấp vốn có Kỳ hạn cho Ngân hàng, hay BTFP. Bước thứ ba, trong một hành động vô cùng đặc biệt, Tổng thống Biden đã xuất hiện trên truyền hình quốc gia để bảo đảm rằng tiền gửi tại các ngân hàng Hoa Kỳ được an toàn. Sự kết hợp giữa những hành động nhanh chóng và đặc biệt như vậy về căn bản đã xác nhận rằng Hoa Kỳ đang đứng trước nguy cơ xảy ra một cuộc rút tiền hàng loạt khỏi các ngân hàng trên toàn quốc.
Ở châu Âu, các vấn đề ngân hàng nổi lên sau sự đổ vỡ của Credit Suisse. Việc “sáp nhập” (thực chất là một vụ mua lại áp đặt do chính phủ Thụy Sĩ chỉ thị) của Credit Suisse và một đại ngân hàng Thụy Sĩ khác, UBS, đã làm dịu đi tình hình ở châu Âu. Tuy nhiên, vào cuối tháng Tư, cuộc khủng hoảng này lại tái diễn với sự sụp đổ của một ngân hàng khu vực khác của Hoa Kỳ, ngân hàng First Republic Bank. Số phận bất hạnh của ngân hàng này cung cấp những manh mối quan trọng về đích đến mà cuộc khủng hoảng này đang hướng tới.
Thanh khoản và các khoản cho vay
BTFP đã trở thành một thứ gì đó giống như một ‘kế hoạch bảo đảm tiền gửi’ với số lượng khoản vay 1 năm tăng theo mỗi tuần mà các ngân hàng Hoa Kỳ tìm kiếm từ Hệ thống Dự trữ Liên bang, với một lần giảm xuống may mắn. Chương trình này dự kiến kết thúc vào ngày 11/03/2024, nhưng gần như chắc chắn sẽ được kéo dài đến một tương lai không thể đoán trước.
Có một giới hạn liên quan đến số tiền cho vay mà các ngân hàng có thể có được thông qua BTFP. Các ngân hàng cần đưa ra một tài sản bảo đảm, một tài sản có tính thanh khoản (công khố phiếu, v.v.) để đổi lấy khoản vay đó, công khố phiếu là loại tài sản mà nhiều ngân hàng có số lượng hạn chế. Đặc biệt là các ngân hàng nhỏ hơn có xu hướng đi theo mô hình ngân hàng truyền thống, trong đó dòng tiền gửi vào được cân bằng trong bảng cân đối kế toán của họ bằng cách phát hành các khoản cho vay [hơn là mua công khố phiếu].
Ví dụ, First Republic Bank đã chỉ có thể có được 13 tỷ USD từ BTFP, vì ngân hàng này chủ yếu nắm giữ các tài sản là các khoản cho vay, trong khi SVB thì đã mua công khố phiếu để cân bằng dòng tiền gửi vào. Nhưng than ôi, cả hai chiến lược này đều đã dẫn đến sự sụp đổ của hai ngân hàng, và sự việc này đã gửi đi một cảnh báo nghiêm trọng về tình trạng của hệ thống ngân hàng khu vực Hoa Kỳ. Về căn bản, cả mô hình ngân hàng truyền thống (cho vay các khoản tiền gửi) và mô hình được chính phủ thúc đẩy (mua công khố phiếu) đều đã trở thành ‘những chiếc bẫy tử thần’ đối với các ngân hàng.
Hơn nữa, trong khi thanh khoản tổng thể trong hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ tăng lên từ quý 1 đến quý 2 năm nay, thì độ phân tán (độ lệch chuẩn) của hệ thống ngân hàng cũng đã tăng lên. Hiện tượng này có nghĩa là có nhiều ngân hàng Hoa Kỳ có bộ đệm thanh khoản nhỏ hơn và do đó có nguy cơ phá sản vào cuối quý 2 cao hơn so với cuối quý 1. Việc so sánh tình hình hiện tại của các ngân hàng Hoa Kỳ so với quá khứ cũng gửi đi lời cảnh báo về nguy cơ sụp đổ hoàn toàn của lĩnh vực ngân hàng.
Sắp rơi vào tình trạng sụp đổ?
Hồi tháng 05/1984, Continental Illinois National Bank and Trust, ngân hàng thương mại lớn thứ bảy của Hoa Kỳ vào thời điểm đó, đã phá sản do các khoản nợ xấu mà ngân hàng này mua từ ngân hàng (đã sụp đổ) Penn Square Bank và kết quả là 30% số tiền gửi tại ngân hàng này bị rút ra. Dựa trên dữ liệu vào cuối quý 2, gần 2800 ngân hàng (trong số 4642 ngân hàng nhận tiền gửi nhỏ lẻ trong cơ sở dữ liệu của FDIC), sẽ sụp đổ nếu họ phải đối mặt với việc rút tiền hàng loạt tương tự đã khiến Continental Illinois đổ vỡ. Cần lưu ý, mức rút tiền hàng loạt ở SVB là 87%, ở Silvergate là 52% và ở Signature Bank là 29% số tiền gửi của họ.
Các ngân hàng khu vực nhỏ ở Hoa Kỳ hiện đang nắm giữ phần lớn các khoản cho vay địa ốc, gần 2000 tỷ USD. Tại các ngân hàng khu vực, các khoản cho vay như vậy đã tăng 35% kể từ đầu năm 2020, và tăng tới 147% kể từ khi chạm đáy vào tuần cuối cùng của năm 2011. Như chúng ta đã biết, nhiều thành phố của Hoa Kỳ đang trong tình trạng ‘Ngày tận thế bán lẻ’, tức là có khả năng trở nên tồi tệ hơn nhiều khi suy thoái xảy ra (điều này có lẽ không còn xa). Như sự sụp đổ của First Republic đã cho thấy, các ngân hàng không thể thanh lý các khoản vay này (ngoại trừ trong những điều kiện rất hạn chế theo cửa sổ chiết khấu của Fed).
Và vấn đề đang ngày càng trở nên cấp bách. Ví dụ, danh mục cho vay của First Republic Bank gồm 80% các khoản cho vay địa ốc. Họ đã chịu thua lỗ từ danh mục cho vay của mình và có bộ đệm thanh khoản rất hạn chế để chống lại dòng tiền gửi rút ra ngoài, và đã sụp đổ. Có hàng trăm ngân hàng Hoa Kỳ có tỷ trọng cho vay địa ốc trong danh mục cho vay của họ cao hơn mức mà First Republic từng có. Hơn nữa, hàng ngàn ngân hàng Hoa Kỳ không có năng lực đối phó với tình trạng rút tiền gửi mà Continental Illinois đã phải đối mặt.
Các khoản lỗ cho vay tích lũy trong bảng cân đối kế toán của các ngân hàng có thể (có khả năng) kích hoạt một đợt rút tiền hàng loạt khỏi ngân hàng nghiêm trọng hơn, khiến các ngân hàng Hoa Kỳ phá sản hàng loạt. Trong trường hợp xấu nhất, chúng ta đang tiến tới sự sụp đổ hoàn toàn của hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ.
Hãy tăng số lượng tiền mặt nắm giữ.
Tác giả mong muốn gửi lời cảm ơn đến Tiến sĩ Peter Nyberg vì những góp ý. Những lỗi còn lại là do tôi để lại.
Vân Du biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times