Nhìn thấu ‘Thuyết tiến hóa’ (Chương 4): Thuyết tiến hóa không động chạm đến thế giới tinh thần (P.1)
Mời quý vị đón đọc Chuyên đề “Nhìn thấu Thuyết tiến hóa.”
Tiếp theo: Nhìn thấu ‘Thuyết tiến hóa’ (Chương 3): Sinh học phân tử phủ định giả thuyết tiến hóa (P.3)
Vào năm 399 trước Công nguyên, vì bị cáo buộc các tội danh như “bất kính với các vị Thần của Athens”, “làm hư hỏng những người trẻ tuổi của Athens”, v.v. Socrates lúc đó 70 tuổi đã bị kết án tử hình bằng thuốc độc. Năm 1787, dựa trên giai thoại lịch sử này, họa sĩ người Pháp Jacques-Louis David (1748~1825) đã sáng tác ra bức tranh sơn dầu cổ điển “Cái chết của Socrates” (tiếng Pháp: La Mort de Socrate).
Trong tranh, khuôn mặt của Socrates trông rất tươi sáng, không lộ vẻ bất bình, sợ hãi hay thương tâm. Ông tin vào sự bất tử của linh hồn. Động tác chỉ tay lên trời cho thấy sự kiên định không bị dao động bởi sinh tử. Trong khi bình tĩnh duỗi cánh tay phải của mình về phía thuốc độc, ông vẫn thảo luận về triết học với các học trò và những người khác như thường lệ, chỉ có điều chủ đề lần này là liên quan đến “tử vong.”
Cách đây hơn 2,400 năm, triết gia Socrates đã để lại ấn tượng sâu sắc cho mọi người bằng phong thái phi thường điềm tĩnh trước cửa tử, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Tại sao ông có thể làm được như vậy? Bởi vì Socrates ý thức được rằng con người không chỉ là cơ thể vật chất có thể nhìn thấy bằng mắt thường, mà tinh thần của con người là tồn tại độc lập với cơ thể vật chất, và tử vong không phải là sự kết thúc của sinh mệnh. Dù nhục thể tử vong nhưng tinh thần của con người vẫn tồn tại ở trong một không gian mà mắt thường không thể nhìn thấy.
Con người là sinh mệnh hoàn chỉnh đồng thời có hai loại thuộc tính – vật chất và tinh thần. Thân thể vật chất bao gồm những cấu trúc có thể nhìn thấy bằng mắt thường như cơ bắp, xương cốt, ngũ quan, tứ chi v.v. Còn tinh thần thì bao hàm rất nhiều mặt như tư tưởng, cảm xúc, tình cảm, tính cách, đạo đức v.v. Vô số nghiên cứu khoa học đã chứng minh một cách mạnh mẽ rằng tinh thần con người không chỉ tồn tại, mà mỗi thời mỗi khắc đều ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất của con người.
Trong ba chương trước, chúng tôi đã bác bỏ giả thuyết “con người tiến hóa từ khỉ” của Darwin từ góc độ sinh học. Giả thuyết của ông còn một thiếu sót quan trọng khác, đó là nó hoàn toàn bỏ qua đặc điểm tinh thần của con người. Nếu một người bị mất đi kết cấu hoặc chức năng của một số cơ quan trong cơ thể do bệnh tật, thì người này vẫn có thể sống sót. Nhưng nếu một người mất đi tinh thần thì không còn là một người “đang sống” nữa. Ví như “người thực vật” có thể duy trì các hoạt động sống với sự trợ giúp của kỹ thuật y tế, nhưng tinh thần thì đã biến mất. Người như vậy chỉ còn lại thể xác. Từ góc độ thể xác, người này chưa tử vong, nhưng từ góc độ tinh thần, người này đã không còn tồn tại. Darwin đã bỏ qua sự tồn tại của “tinh thần” con người, cũng chính là bỏ qua bản chất sinh mệnh của con người.
Nói đến tinh thần, do chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật, “nhìn thấy thì mới tin,” người ta thường cho rằng tinh thần là một loại phi vật chất, đối lập với “vật chất.” Nhưng trên thực tế, tinh thần là một loại vật chất. Nó không những không đối lập với nội hàm của vật chất mà còn có cùng một thuộc tính.
Tinh thần con người là một loại vật chất thực sự tồn tại. Mắt người không thể nhìn thấy tinh thần, nhưng tinh thần có thể được phát hiện bằng các công cụ khoa học. Nó có thể di truyền, có thể được cơ thể ghi nhớ, và thậm chí có thể được chuyển dịch thông qua cấy ghép nội tạng.
Có một trường hợp nghiên cứu khoa học thực tế như sau: Cháu bé 16 tháng tuổi tên là Jerry không may bị chết đuối. Một đứa trẻ 7 tháng tuổi khác, Carter, mắc một dạng tứ chứng Fallot hiếm gặp (một loại bệnh tim bẩm sinh) và cần được cấy ghép nội tạng để tiếp tục sống. Trái tim của Jerry đã được cấy ghép cho Carter. Sau khi Carter tiếp nhận trái tim của Jerry, bất cứ khi nào mẹ của Jerry ở bên Carter, bà đều có thể cảm thấy như Jerry vẫn còn sống. Trong khi đó, mẹ của Carter cảm thấy con trai của bà không còn là người con ban đầu nữa.
Sau khi phân tích một số lượng lớn các trường hợp như vậy, các khoa học gia đã kết luận: tư tưởng hoặc tính cách của chúng ta cũng được lưu trữ trong các cơ quan của cơ thể giống như một loại vật chất. Nói cách khác, cơ thể của chúng ta không gì khác hơn là một phương tiện tải thể của loại vật chất như tinh thần hoặc tư tưởng. Nếu tinh thần không phải là một loại vật chất, thì làm sao nó có thể được lưu trữ hoặc thậm chí dịch chuyển theo các cơ quan như não hoặc tim của cơ thể chúng ta?
Dự án “nghiên cứu nữ tu” (Nun Study) là một dự án nghiên cứu kinh điển về bệnh Alzheimer. Nghiên cứu này phát hiện có một số người sống cả đời mà không mắc chứng mất trí nhớ, mặc dù não của họ đã bị thoái hóa khá nhiều. Nữ tu Mary là một ví dụ điển hình. Mặc dù não của bà có rất nhiều tổn thương điển hình của bệnh Alzheimer, chẳng hạn như các đám rối sợi thần kinh và lắng đọng amyloid, nhưng bà vẫn có điểm kiểm tra nhận thức rất cao trước khi qua đời ở tuổi 101. Dự án nghiên cứu này cho thấy khi những thay đổi bệnh lý xảy ra trong cấu trúc của não, bộ não cũng không nhất thiết sẽ phát sinh sự thoái hóa về chức năng. Trạng thái tinh thần của một người không nhất thiết phải do cơ thể quyết định, hơn nữa nó dường như còn giúp chống lại hậu quả của các cấu trúc bệnh biến.
Năm 1980, tạp chí “Science” đã thuật lại một trường hợp y tế đáng kinh ngạc về một sinh viên đại học đạt thành tích xuất sắc với bằng danh dự hạng nhất về toán học. Chỉ số IQ của cậu là 126, và các kỹ năng xã hội hoàn toàn bình thường. Có một lần, các bác sĩ nhận thấy đầu của cậu hơi to hơn bình thường và đã quét não của cậu. Kết quả thật bất ngờ: Mô não của sinh viên này đã bị co lại nghiêm trọng đến mức chỉ dày 1mm, mà mô não bình thường dày đến 4.5cm. Sau khi bị não úng thủy nặng, não của cậu đã bị teo lại, gần như trở thành người không có não, được mọi người gọi là “người không có não.”
Trường hợp về “người không có não” này cho thấy hiểu biết của chúng ta về hoạt động của bộ não vẫn còn rất hữu hạn. Chúng ta thường cho rằng tinh thần của con người được sản sinh ra trong não bộ. Điều này kỳ thực không đúng. Vậy, nếu ý thức, khả năng nhận thức và trí tuệ của con người không đến từ bộ não, thì ý thức của con người rốt cuộc đến từ đâu?
Các nhà thần kinh học cho rằng cơ thể con người có một “bộ não sâu” vô hình, ý thức có thể được “lưu trữ ở một số dạng hạt hạ nguyên tử cực kỳ nhỏ.” Mặc dù thành phần vật chất này vẫn chưa được các nhà hóa sinh và sinh lý học biết đến, nhưng có lẽ nó đã được lưu trữ “bên ngoài cơ thể chúng ta.”
Sir John Carew Eccles, nhà sinh lý học thần kinh người Úc đạt giải Nobel về Sinh lý học và Y học vào năm 1963, đã trả lời câu hỏi này một cách chắc chắn rằng: Con người có một “ý thức” phi vật chất, độc lập với bộ não, gọi là “linh hồn,” và “linh hồn” có thể tách rời khỏi cơ thể.
Nếu ví bộ não với phần cứng và phần mềm chính của máy điện toán, thì tinh thần có thể ví với “chủ nhân” điều hành máy điện toán. Tinh thần giống như một người chỉ huy, chỉ đạo bộ não hoạt động bằng cách nhập thông tin chỉ dẫn cho bộ não. Mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác giống như một vở múa rối. Thứ mà khán giả nhìn thấy là màn biểu diễn của nhục thân trên sân khấu, nhưng điều thực sự khởi tác dụng chính là “tinh thần” đang điều khiển con rối ở sau sân khấu.
Tinh thần không chỉ có thuộc tính vật chất, mà còn có thuộc tính năng lượng độc đáo, có thể ảnh hưởng đến trường năng lượng của cơ thể con người.
Nghiên cứu khoa học hiện đại đã chứng minh, cơ thể con người có một trường năng lượng. Khi ngón trỏ của những người yêu nhau chạm vào nhau, ánh sáng phát ra từ các đầu ngón tay sẽ tạo ra một kết nối giống như tia chớp. Khi quý vị nói “Anh yêu em” với người bạn đời thân thiết của mình, một khối năng lượng vật chất sẽ được giải phóng khỏi lồng ngực và bay về phía đối phương. Điều này giống như cảnh trong phim viễn tưởng, nhưng đó là một hiện tượng vật lý có thật. Những cảm xúc tích cực và tiêu cực khác nhau đều có thể ảnh hưởng đến trường năng lượng của cơ thể con người. Nhạc rock có tác động tiêu cực đến trường năng lượng của cơ thể con người, còn nhạc cổ điển có thể sinh ra tác động tích cực.
Là một bộ phận quan trọng của cơ thể con người, tinh thần cũng đang mỗi thời mỗi khắc ảnh hưởng đến kết cấu vật chất và sức khỏe của con người. Không chỉ căng thẳng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, mà tư tưởng, tính cách, quan niệm đạo đức cũng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của con người.
Các nghiên cứu đã chứng minh rằng nếu một người có thái độ tử tế và trung thực, thì khả năng miễn dịch và trạng thái sức khỏe của người đó thông thường sẽ khá tốt. Nếu quý vị có thể thường xuyên suy nghĩ về mục đích và ý nghĩa của cuộc sống, quý vị sẽ có thể tăng cường khả năng miễn dịch, giảm tỷ lệ mắc các bệnh tim mạch và tỷ lệ tử vong. Điều này có thể giúp quý vị kéo dài tuổi thọ.
Một trạng thái tinh thần tích cực, đặc biệt là những giá trị đạo đức tốt, có thể cải thiện sức khỏe và đóng vai trò rất lớn trong cuộc sống. Giả thuyết tiến hóa sai lầm của Darwin không chỉ có 13 lỗi chính, mà còn bỏ qua một yếu tố quan trọng là “tinh thần.” Đây là một thành phần quan trọng của cơ thể con người, đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu trong việc duy trì sự sống và sức khỏe của con người. Chính là đã bỏ qua bản chất của sinh mệnh.
Chúng ta hãy cùng khám phá một bộ phận quan trọng của cơ thể con người mà “giả thuyết tiến hóa” không đụng chạm tới, nhưng nó lại thực sự tồn tại. Đó là thế giới tinh thần của con người.
1. Giả thuyết tiến hóa bỏ qua phương diện tinh thần
Con người là một sinh mệnh hoàn chỉnh đồng thời có cả hai loại thuộc tính vật chất và tinh thần. Cơ thể vật chất bao gồm những cấu trúc có thể nhìn thấy bằng mắt thường như cơ bắp gân cốt, ngũ quan tứ chi; còn tinh thần bao hàm rất nhiều mặt như tư tưởng, tình cảm, cảm xúc, tính cách, đạo đức, v.v.
Khoa học thực nghiệm chủ yếu giới hạn trong việc nghiên cứu sinh mệnh trong thế giới vật chất mà mắt người có thể “nhìn thấy” và các công cụ đo lường hiện có. Quá trình này được cập nhật liên tục thuận theo sự phát triển của công nghệ. Tuy nhiên, sự hiểu biết của con người về các hiện tượng tinh thần còn kém xa so với việc nghiên cứu các vật chất thông thường.
Mặc dù giả thuyết tiến hóa của Darwin trông giống như một giả thuyết khoa học, nhưng chúng tôi đã chỉ ra rõ ràng các vấn đề khác nhau của nó trong ba chương trước. Trên thực tế, nó hoàn toàn vi phạm các nguyên tắc khoa học cơ bản như tôn trọng sự thật v.v.
Giả thuyết tiến hóa vi phạm các nguyên tắc khoa học ở ít nhất 13 khía cạnh: (1) Lấy cục bộ để khái quát toàn bộ; (2) Lẫn lộn về khái niệm; (3) Nghiệm chứng thất bại; (4) Vi phạm quy luật tự nhiên; (5) Con người không phải tiến hóa từ khỉ; (6) không phải “tiến hóa từ từ” mà là “đột ngột bùng nổ”; (7) không phải “chọn lọc tự nhiên” mà là “thiết kế có chủ ý”; (8) Nhìn thì giống như “thoái hóa cấu trúc,” thực ra đều là “có tác dụng lớn”; (9) Không phải là “cạnh tranh tàn khốc” mà là “cộng sinh cùng có lợi”; (10) Không phải “sự thật khoa học” mà là “lừa dối, giả mạo”; (11) Sự phức tạp và hiệu quả của sinh mệnh trực tiếp phủ định “tiến hóa”; (12) gene đi ngược lại “thuyết tiến hóa”; (13) “Cây phát sinh hệ thống” là một cây giả tưởng không có cơ sở.
Giả thuyết tiến hóa của Darwin còn có một điểm thiếu sót rất quan trọng. Đó là nó hoàn toàn bỏ qua đặc tính tinh thần của con người.
Để hiểu rõ hơn phần nội dung này, trước hết chúng ta hãy điểm lại các giai đoạn phát triển và lịch sử trong việc tìm hiểu cơ thể người dưới sự chỉ dẫn của khoa học thực nghiệm.
1.1 Nội tạng nhân thể mà con người nhìn thấy
Vào thời cổ đại, hầu hết các nền văn minh cổ đại trên thế giới đều mang tâm kính sợ đối với cơ thể người [270], đem cơ thể con người và tinh thần, linh hồn liên hệ với nhau, không dám tùy tiện giải phẫu cấu trúc cơ thể người.
Nếu một người bị mất đi cấu trúc hoặc chức năng của một số cơ quan trong cơ thể do bệnh tật, thì người đó vẫn có thể sống sót. Còn một cá nhân không có suy nghĩ hoặc linh hồn, hoặc một người thực vật nằm trên giường và không thể di chuyển, thì không thể được xem là một cá thể sinh mệnh hoàn chỉnh, mà tương đương với “một khối thịt” theo một ý nghĩa nào đó.
Vào năm 300 trước Công nguyên, bác sĩ người Alexandrian Herophilus [271], được biết đến như là cha đẻ của giải phẫu học, đã giải phẫu một thi thể người. Đây là nghiên cứu đầu tiên về giải phẫu người được ghi chép lại. Vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, bác sĩ người Hy Lạp Galenus đã chỉnh lý lại những phát hiện của các nhà giải phẫu học. Đến thế kỷ 16, họa sĩ kiêm khoa học gia người Ý Leonardo da Vinci (1452-1519) [272] đã thực hiện rất nhiều nghiên cứu về giải phẫu và vẽ rất nhiều hình ảnh về giải phẫu người, mở đường cho nghiên cứu giải phẫu sau này của bác sĩ người Bỉ Andreas Vesalius (1514-1564) [273].
Tác phẩm “De Humani Corporis Fabrica Libri Septem” (Về cấu trúc cơ thể con người qua bảy cuốn sách) của Andreas Vesalius là một cuốn sách giáo khoa giải phẫu có hình minh họa [274]. Nó đã cung cấp những mô tả khá chính xác về xương, cơ, mạch máu, dây thần kinh và các hệ thống khác của thân thể con người.
1.2 Tế bào người dưới kính hiển vi
Với việc phát minh ra kính hiển vi, con người đã bắt đầu nhìn thấy những cấu trúc nhỏ bé mà trước đây chưa từng được biết đến. Nhà sản xuất kính Hà Lan Zacharias Janssen sinh năm 1585 được cho là đã chế tạo ra một trong những kính hiển vi phức hợp đầu tiên vào khoảng năm 1600, có khả năng phóng đại các vật thể lên gấp 20 hoặc 30 lần kích thước bình thường của chúng. [275]
Vào những năm 60 của thế kỷ 17, các thấu kính được đánh bóng bằng tay chất lượng cao có thể phóng đại các vật thể lên tới 200 lần. Khoa học gia người Hà Lan Antonie van Leeuwenhoek (1632-1723) đã quan sát được mô động thực vật, tế bào người, khoáng chất, hóa thạch và rất nhiều những thứ chưa từng thấy khác dưới kính hiển vi. Ông là người đầu tiên sử dụng “tế bào” để mô tả tất cả các sinh vật sống bao gồm con người, động vật và thực vật. [276]
Kể từ những năm 1830 trở đi, thuận theo sự nâng cấp liên tục của kính hiển vi, độ phân giải của thiết bị này đã được cải thiện rất nhiều. Vào khoảng những năm 1838-1839, nhà thực vật học người Đức Matthias Jakob Schleiden (1804-1881) [277] và nhà sinh lý học người Đức Theodor Schwann (1810-1882) [278] đã bắt đầu nhận ra tế bào [279] là đơn vị cơ bản của tất cả các mô sinh học.
Cuốn sách được xuất bản vào năm 1839 của Schwann “Nghiên cứu bằng kính hiển vi về sự giống nhau của cấu trúc và sự phát triển ở động vật và thực vật” (tiếng Đức: Mikroskopische Untersuchungen über die Uebereinstimmung in der Struktur und dem Wachsthum der Thiere und Pflanzen) đã được xem là một cột mốc đặt nền móng cho ngành sinh vật học hiện đại. [280]
Nhà nghiên cứu bệnh học người Đức Rudolf Virchow (1821-1902) là người đầu tiên áp dụng lý thuyết tế bào để giải thích tác động của bệnh tật lên các cơ quan và mô của cơ thể, đồng thời cho rằng bệnh tật không xuất hiện ở các cơ quan hoặc mô, mà thay vào đó, nó chủ yếu xuất hiện ở trong tế bào. Ông đã tạo ra một khái niệm mới về bệnh học hiện đại. Vì vậy, ông được xưng là “cha đẻ của bệnh học hiện đại.” [281]
Những người ở thời Darwin nhận thức cấu trúc của cơ thể con người chủ yếu từ kiến thức về các cơ quan nhìn thấy bằng mắt thường. Thời điểm đó, cánh cửa dẫn đến sự hiểu biết về lĩnh vực vi quan – tế bào – cũng vừa mới mở ra, hiểu biết của mọi người về các cấu trúc vi quan hơn thậm chí còn rất ít.
Mọi người dùng kính hiển vi để quan sát tế bào. Phải thừa nhận rằng đây là một tiến bộ. Tuy nhiên, chưa có loại kính hiển vi nào có thể giúp con người nhìn thấy toàn cảnh cơ thể người ở cấp độ tế bào. Những nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của phương pháp luận khoa học thực nghiệm càng vi mô, càng chi tiết bao nhiêu thì càng mất đi tính toàn vẹn bấy nhiêu. Đây là khiếm khuyết cố hữu mà khoa học thực nghiệm mang đến.
1.3 Kết cấu vi quan hơn của nhân thể
Thuận theo việc không ngừng khám phá sâu hơn về thế giới vật chất, thì nhận thức của mọi người về khái niệm cơ thể con người cũng bắt đầu đi vào một lĩnh vực ngày càng vi mô.
Đến thời hiện đại, với sự phát triển của công nghệ kính hiển vi điện tử và công nghệ sinh học phân tích hiện đại, người ta đã phát hiện tế bào là do nhiều phân tử khác nhau tổ thành [282], bao gồm các phân tử sinh học như protein, acid nucleic, v.v. cũng như các phân tử nước, muối vô cơ, v.v.
Ví dụ, phân tử protein [283] là do 20 loại phân tử acid amin tổ thành, mỗi phân tử acid amin đều do một gốc amin (-NH2) liên kết với một gốc cacboxyl (-COOH) và các nguyên tử khác. Cấu trúc cơ bản của acid nucleic là nucleotide [284]. Mỗi phân tử nucleotide bao gồm một phân tử đường năm carbon, một nucleobase và một hoặc nhiều gốc phosphat.
Vào năm 1808, nhà khí tượng học và hóa học người Anh John Dalton (1766-1844) [285], người tiên phong trong việc phát triển lý thuyết nguyên tử hiện đại, đã xuất bản cuốn “Hệ thống triết học hóa học mới” (New System of Chemical Philosophy). Trong đó, ông đã đưa ra lý thuyết nguyên tử, cho rằng tất cả các nguyên tố hóa học đều là do một hạt rất nhỏ không thể phân chia (nguyên tử) tổ thành. Các nguyên tử của cùng một nguyên tố đều có cùng kích thước, khối lượng và tính chất.
Tuy nhiên, do hạn chế của các điều kiện kỹ thuật khách quan, Dalton không thể làm sáng tỏ cấu trúc của bản thân nguyên tử. Mãi cho đến khi phát hiện ra các hạt cơ bản và khái niệm lượng tử ra đời, mô hình lý thuyết nguyên tử hiện đại mới dần được xác lập.
Năm 1811, nhà vật lý người Ý Romano Amedeo Carlo Avogadro (1776-1856) [286] cho rằng phân tử là đơn vị nhỏ nhất quyết định vật chất, phân tử được tạo thành từ các nguyên tử. Cùng với thuyết nguyên tử của Dalton, phát hiện này đã hình thành nên thuyết “nguyên tử-phân tử” giải thích cấu tạo vi quan của vật chất. Ông đã đưa ra “Định luật Avogadro,” cho rằng dưới cùng điều kiện nhiệt độ và áp suất, một thể tích khí bằng nhau chứa một số lượng phân tử bằng nhau.
Năm 1869, khoa học gia người Nga Mendeleev (1834-1907) đã công bố bảng tuần hoàn các nguyên tố [287], trong đó sắp xếp tổng cộng 118 loại nguyên tử đã được phát hiện. Dù là phân tử protein hay phân tử acid nucleic, thì đều là do các loại nguyên tử như carbon (C), hydro (H), oxy (O), nito (N) và các nguyên tử khác tổ thành.
Trước đây, người ta cho rằng nguyên tử là không thể phân rã. Năm 1897, Joseph Thomson (1856-1940) [288] đã phát hiện nguyên tử không phải là hạt nhỏ nhất. Nguyên tử là do hạt nhân nguyên tử và electron tổ thành [289]. Sau đó, người ta lại phát hiện hạt nhân nguyên tử bao gồm neutron [290] và proton [291]. Về sau, lại phát hiện ra nhiều hạt vi quan hơn, chẳng hạn như quark [292], neutrino [293], v.v. Mãi cho đến hiện tại, các nhà vật lý vẫn chưa khám phá ra rốt cuộc hạt vi mô bản nguyên nhất và không thể phân chia được là gì.
Với sự đột phá trong nhận thức của nhân loại về thế giới vật chất, trong tương lai, nếu con người khám phá ra các cấp độ khác của các thành phần cơ thể con người, hoặc tìm ra một cách tốt hơn để quan sát bức tranh tổng thể của mỗi một bộ phận trên cơ thể, thì sự hiểu biết của nhân loại về cơ thể con người sẽ được được làm mới lại.
1.4 Hạn chế của khoa học thực chứng
Chiểu theo tốc độ phát triển và phương tiện kỹ thuật của vật lý hiện đại, con người sẽ mất bao nhiêu năm để thực sự hiểu được bản nguyên vật chất và bức tranh toàn cảnh về cơ thể con người? Hơn nữa, vật lý hiện đại đã gặp phải một nút cổ chai về mặt kỹ thuật, dường như rất khó đột phá để tiến vào thế giới vật chất vi quan hơn. Giống như một người đang dùi vào trong sừng bò, đi vào trong ngõ cụt vậy. Cũng đã đến lúc con người phải suy ngẫm lại về phương pháp nghiên cứu khoa học.
1.4.1 Nhìn thấy mới tin
Khoa học thực nghiệm được thành lập dưới hệ tư tưởng chỉ đạo “nhìn thấy mới tin,” nên nó có những hạn chế cố hữu về mặt phương pháp. Đối với bất kỳ vật thể nào, trước tiên con người phải nhìn thấy hoặc “phát hiện” bằng kính hiển vi, kính viễn vọng và các dụng cụ khác thì mới đi nghiên cứu, nếu không sẽ không thừa nhận sự tồn tại của nó, càng không nói đến việc nghiên cứu.
Phương pháp này có những hạn chế rõ ràng. Ví dụ, khi dùng công cụ để thăm dò thế giới vật chất, thì chỉ có thể phát hiện những thứ trong phạm vi độ chính xác đo lường của công cụ. Nếu quý vị sử dụng thước đo mét có thang đo tối thiểu là một milimet, thì không thể đo được kích thước của một vật thể một micromet hoặc một nanomet.
Vì vậy, trong quá trình khám phá những bí ẩn của sinh mệnh hay thế giới khách quan bằng các phương tiện khoa học thực nghiệm hiện có, con người sẽ không tránh khỏi việc bỏ qua những thành phần vật chất khách quan “thực sự tồn tại” nhưng không thể đo thấy được. Bất kỳ khoa học gia nào có tinh thần khoa học thực sự đều sẽ không phủ nhận sự thật hiển nhiên này.
1.4.2 Mất tính tổng thể
Ý tưởng cốt lõi của hệ thống sinh vật học hiện đại là “Chủ nghĩa rút gọn” (Reductionism) trong triết học . Nó được mô tả như một lập trường triết học để khám phá tri thức, giải thích các hệ thống phức tạp bằng các bộ phận của chúng. Trong bối cảnh sinh vật học, chủ nghĩa rút gọn có nghĩa là cố gắng giải thích tất cả các hiện tượng sinh học theo các quá trình sinh hóa và phân tử. [294]
Kể từ nửa sau thế kỷ 20, những thành công đạt được sau khi áp dụng các phương pháp rút gọn trong sinh học phân tử là không thể phủ nhận, nhưng chủ nghĩa rút gọn không thể tiến hành nhận thức toàn diện về chỉnh thể cơ thể con người. Hiện tại, không có phương pháp thăm dò hoặc công cụ lý tưởng nào có thể giúp mọi người hiểu được bức tranh tổng thể về cơ thể con người. Nắm vững một phần không có nghĩa là hiểu được toàn bộ.
Mọi người có thể đã từng thấy hiện tượng này: một đồng xu được giữ bởi sức căng bề mặt của nước sẽ không chìm xuống đáy; một khi đồng xu bị đẩy xuống dưới mặt nước, nó sẽ chìm xuống. Côn trùng có thể đi trên mặt nước, giống như biểu diễn trên sân khấu.
Đây là hiện tượng sức căng bề mặt (surface tension), tức là bề mặt của chất lỏng gần giống hình cầu, giống như một màng đàn hồi bị kéo căng, có một loại lực đàn hồi. Chúng ta biết cấu trúc của các phân tử nước, nhưng chúng ta không thể dự đoán sức căng bề mặt từ kiến thức về cấu trúc của từng phân tử nước. Sức căng bề mặt này là một hiện tượng vĩ mô phản ánh hành vi nổi lên của các phân tử chất lỏng (emergent behavior). [295]
Các nhà sinh học lý thuyết như Stuart Kauffman đã nhấn mạnh rằng, các hệ thống phức tạp sở hữu khả năng sinh ra các đặc tính mới, mà những đặc tính mới này không thể dự đoán được bằng cách kiểm tra các thành phần riêng lẻ.
Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Aristotle từng nói rằng “tổng thể lớn hơn tổng các bộ phận.” Sau đó, Smuts đã đặt ra thuật ngữ “tổng thể luận” (chủ nghĩa toàn diện, Holism) để biểu thị “xu hướng trong tự nhiên, thông qua quá trình tiến hóa sáng tạo để hình thành nên một tổng thể lớn hơn tổng số các bộ phận của chúng.”
“Tổng thể luận” đã mang tới sự trỗi dậy của “y học tổng thể” (Holistic Medicine), giúp mọi người đối đãi với những cơ hội mới của cuộc sống từ góc độ tổng thể và toàn diện.
“Sinh học hệ thống” (Systemic Biology) là lĩnh vực hoàn toàn trái ngược với sinh học quy giản. Nó tìm cách lý giải bức tranh toàn cảnh rộng lớn hơn của một sinh vật ở cấp độ mô và tế bào bằng cách đặt các bộ phận lại với nhau. Học thuyết trung tâm của sinh học phân tử (DNA→mRNA→protein) sẽ không bị lật đổ, nhưng nó chắc chắn đã được mở rộng (DNA → mRNA → protein → tương tác giữa các protein → con đường → mạng lưới → tế bào → mô → sinh vật → quần thể → hệ sinh thái). [296]
Tinh thần không thể nhìn thấy bằng mắt người, cũng tương đối khó để khoa học thực chứng nhận thức, nhưng nó cũng là một loại tồn tại vật chất. Tuy nhiên, khoa học thực nghiệm hiện đại vẫn còn thiếu một lý thuyết cơ bản và các công cụ nghiên cứu để kết nối các hiện tượng khác nhau của sinh vật từ vi mô đến vĩ mô, từ cục bộ đến hệ thống, từ vật chất đến tinh thần v.v. ở mức độ tổng thể.
1.5 Nghiên cứu của văn hóa truyền thống đối với tinh thần và năng lượng của con người
Sự phức tạp của sinh mệnh vượt xa phạm vi mà khoa học thực nghiệm có thể chứng minh, y học hiện đại dựa trên khoa học thực nghiệm cũng đang dần bộc lộ ra những nhược điểm của mình. Ngày càng có nhiều khoa học gia hoặc cơ quan nghiên cứu khai sáng trên thế giới bắt đầu quay trở lại phương pháp chăm sóc sức khỏe truyền thống của các quốc gia khác nhau để tìm câu trả lời “làm thế nào để con người có thể khỏe mạnh.” Đây được gọi là Y học bổ sung và thay thế (Complementary and Alternative Medicine).
Nhận thức của văn hóa truyền thống về cơ thể con người, đặc biệt là nghiên cứu về những bí ẩn trong tinh thần của cơ thể con người, đi theo một con đường hoàn toàn khác. Chẳng hạn như tìm bên trong, minh tưởng, ngồi thiền, nhập định. Nó không dựa vào những dụng cụ, thiết bị bên ngoài, mà trực tiếp nhắm vào sinh mệnh con người để nghiên cứu về tinh thần và năng lượng.
1.5.1 Tác dụng dưỡng sinh của ngồi thiền
Trong những thập niên gần đây, ở các quốc gia phương Tây phát triển, mọi người ngày càng quan tâm đến việc nghiên cứu những lợi ích sức khỏe của thiền định truyền thống. Ngày càng có nhiều nghiên cứu khoa học khẳng định lợi ích của các phương pháp dưỡng sinh truyền thống đối với sức khỏe.
Một trong những tác phẩm kinh điển được nhiều người biết đến là luận văn có tựa đề “Những người thiền định lâu dài tự tạo ra sóng gamma đồng bộ biên độ cao trong quá trình tu luyện tinh thần” (Long-term meditor self-induce high-amplitude gamma synchrony during mental practice) của một nhóm nghiên cứu do ông Richard Davidson, giáo sư tâm lý học và tâm thần học tại Đại học Wisconsin, Hoa Kỳ dẫn đầu. Luận văn này được đăng trên “Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ” (Proceedings of the National Academy of Sciences) hồi tháng 11/2004. Họ đã nghiên cứu và so sánh sóng não trước và sau khi thiền định của 8 người tập thiền lâu năm. Tám người này ở độ tuổi từ 15-40 tuổi, họ đã thiền định tổng cộng từ 10,000 đến 50,000 giờ. Nhóm đối chứng gồm 10 học sinh chưa bao giờ ngồi thiền. Điện não đồ cho thấy những người tập thiền có sóng gamma biên độ cao (sóng γ) khá đồng bộ trong khi thiền định, và sóng này không xuất hiện trên điện não đồ của nhóm đối chứng. [297]
Trước đây, cộng đồng khoa học thường cho rằng hành vi của các dây thần kinh não không thể thay đổi thông qua rèn luyện. Kết quả của thí nghiệm mang tính bước ngoặt này đã phá vỡ nhận thức trước đây của cộng đồng khoa học, cho thấy phương pháp thiền định truyền thống có thể tối ưu hóa chức năng của bộ não, ít nhất nó đã được phản ánh ra dưới dạng sóng não.
Sau đó, ông Richard Davidson đã thành lập và trở thành chủ tịch của Trung tâm Trí tuệ Khỏe mạnh (Center for Healthy Minds) và tổ chức bất vụ lợi trực thuộc mang tên Sáng tạo Tâm trí Lành mạnh (Healthy Minds Innovations), lấy “một thế giới tử tế hơn, trí tuệ hơn và đồng cảm hơn” làm tầm nhìn, và “nuôi dưỡng hạnh phúc, giảm bớt đau khổ thông qua hiểu biết khoa học về tâm trí” làm sứ mệnh.
Một hòn đá đã khơi dậy ngàn cơn sóng. Nghiên cứu của Giáo sư Davidson đã mở ra mối quan tâm nghiên cứu rất lớn về phương pháp thiền định truyền thống trong giới khoa học phương Tây. Năm 2006, ông Davidson đã được tạp chí “Time” của Hoa Kỳ vinh danh là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Hiện nay, thiền định đã trở thành một cách rèn luyện sức khỏe thời thượng cho giới nhân sĩ chủ lưu ở phương Tây.
Trong một nghiên cứu về bộ gene quy mô lớn khác, các khoa học gia phát hiện việc ngồi thiền đã làm tăng biểu hiện của 220 gene liên quan đến cải thiện phản ứng miễn dịch, làm giảm các con đường gene liên quan đến ứng kích oxy hóa (oxidative stress) và điều hòa chu kỳ tế bào. Về mặt tổng thể, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường hệ thống miễn dịch của con người để chống lại virus, và giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh nhân nhiễm COVID-19. [298]
Tháng 05/2023, tổ chức bất vụ lợi “Nghiên cứu Khoa học Tâm trí” (InnerScience Research) ở Hoa Kỳ đã cam kết đầu tư 10 triệu USD trong vòng 5 năm cho Đại học California San Diego (UCSD) để nghiên cứu về thiền định và tác dụng của thiền định đối với việc làm chậm các bệnh nghiêm trọng và kinh niên. [299]
Nghiên cứu này do Giáo sư Hemal Patel của Trường Y Đại học California San Diego dẫn đầu. Tầm nhìn của Quỹ Nghiên cứu Khoa học Tâm trí là giúp mọi người chữa bệnh và duy trì sức khỏe thông qua nghiên cứu tác động của thiền định đối với cơ thể con người, đồng thời hy vọng thiền định sẽ trở thành một bộ phận trong các phương pháp điều trị bệnh của con người trong tương lai.
1.5.2 Bằng chứng khách quan về sự tồn tại của kinh lạc
Ngay từ 2,500 năm trước, cuốn “Hoàng Đế Nội Kinh” đã mô tả sự phân bố của kinh lạc trong cơ thể con người. Cho đến ngày nay, học thuyết kinh lạc vẫn là cơ sở lý luận quan trọng để chỉ đạo Trung y thực hành châm cứu lâm sàng. Trước đây Tây y thường phủ nhận Trung y vì không chứng minh được sự tồn tại của kinh lạc ở cấp độ giải phẫu học. Gần đây, ngày càng có nhiều kết quả nghiên cứu khoa học hiện đại đã đưa ra bằng chứng khách quan về sự tồn tại của kinh lạc.
Tháng 04/2021, tập san y khoa “Y học thay thế và bổ sung dựa trên bằng chứng” (Evidence-based Complementary and Alternative Medicine) đã công bố một luận văn với nhan đề “Thí nghiệm trực quan hóa kinh lạc tâm bào trong cơ thể bằng thuốc nhuộm huỳnh quang” (In Vivo Visualization of the Pericardium Meridian with Fluorescent Dyes). Trong luận văn này, các khoa học gia từ Đại học Harvard, Sở nghiên cứu Châm cứu thuộc Viện Khoa học Trung y Trung Quốc và các tổ chức khác đã lần đầu tiên quan sát được rõ ràng các vạch huỳnh quang liên tục di chuyển dọc theo kinh lạc huyệt vị của cơ thể con người, cung cấp bằng chứng mạnh mẽ cho sự tồn tại của kinh lạc trong Trung y. [300]
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng tia laser để kích thích fluorescein và chụp ảnh, thu được đường di chuyển của chất huỳnh quang này trong cơ thể. Kết quả cho thấy quỹ đạo của nó chạy dọc theo các huyệt vị lân cận của kinh tâm bào, từ huyệt Nội Quan đến huyệt Gian Sử, rồi đến huyệt Khúc Trạch, trùng khớp với các huyệt của kinh tâm bào, tạo thành đường kinh lạc ổn định.
Nghiên cứu này đã tuyển chọn 15 người tham gia và đã làm 19 lần thử nghiệm chích fluorescein tại huyệt PC6 (Nội Quan), trong đó có 15 lần (79%) huyệt Khúc Trì khuếch tán chậm dọc theo đường kinh lạc khớp với kinh tâm bào.
Như thể hiện trong hình bên dưới: Trong hình a, fluorescein di chuyển rất nhanh chóng, quan sát được một vạch rõ ràng ngay sau 10 phút, đạt cực đại sau 60 phút và sau đó yếu dần. Tốc độ di chuyển trong hình b thì tương đối chậm. Điều đáng chú ý là trong hình b, chất huỳnh quang tại PC3 (huyệt Khúc Trạch) xuất hiện tại đường tuyến tính giữa PC3 và PC4 (huyệt Khích Môn), cho thấy sự tích tụ bất thường của fluorescein tại huyệt Khúc Trạch. Điều này tương tự như mô tả về các đặc điểm của huyệt Khúc Trạch trong Trung y.
Huyệt Khúc Trạch là một “hợp huyệt” thuộc Thủ Quyết Âm Tâm Bào. Theo “Hoàng Đế Nội Kinh,” “hợp huyệt” nghĩa là “sở nhập vi hợp,” tức là chỉ dòng chảy của kinh mạch giống như những dòng sông từ khắp nơi hội tụ thành biển lớn. [301]
Bằng cách so sánh hình ảnh siêu âm và hình ảnh hồng ngoại, khả năng các vạch huỳnh quang chảy dọc theo mạch máu đã bị loại trừ. Các nhà nghiên cứu cũng đã thiết kế một thí nghiệm, trong đó fluorescein và indocyanine green (một chất cản quang chủ yếu được sử dụng để chụp mạch bạch huyết) được chích vào cùng lúc, khả năng các vạch huỳnh quang là mạch bạch huyết cũng đã bị loại trừ. Đây là nghiên cứu đầu tiên sử dụng phương pháp truy tìm hoàn toàn mới để thu được quỹ đạo kinh lạc trong cơ thể con người.
2. Tinh thần là một loại tồn tại vật chất
Nói đến tinh thần, những người chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật, nhìn thấy thì mới tin, thường cho rằng tinh thần là thứ phi vật chất, đối lập với “vật chất.” Nhưng trên thực tế, tinh thần là một loại vật chất, nó không những không đối lập với nội hàm của vật chất mà còn có cùng một thuộc tính. Trong cuộc sống, có rất nhiều điều thực sự có thể truyền cảm hứng cho chúng ta cân nhắc và suy luận ra thuộc tính vật chất của tinh thần.
Tất cả mọi người đều chú ý đến ấn tượng đầu tiên khi giao tiếp với người khác, cho rằng ấn tượng đầu tiên là rất quan trọng. Nếu quý vị tạo cho đối phương ấn tượng ban đầu không tốt thì sau này sẽ rất khó thay đổi. Ý kiến của một cá nhân về người khác, cho rằng họ tốt hay không, không phải là một suy nghĩ đơn giản, mà nó là một loại vật chất, có những biểu hiện vật chất về mặt thời gian và không gian. Hơn nữa, loại vật chất này sau khi hình thành có thể tồn tại rất lâu mà không bị đào thải. Nếu tinh thần không phải là vật chất, tại sao những ấn tượng đầu tiên trong vài giây lại khó xóa đi đến vậy?
Tục ngữ có câu, “giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời.” Tính cách con người một khi đã hình thành, có lẽ cả đời cũng khó mà thay đổi. Tính cách là thói quen tư duy ổn định được hình thành dần dần trong quá trình trưởng thành. Nếu tinh thần không phải là vật chất, tại sao tính cách lại khó thay đổi như vậy?
Một ví dụ khác, người ta thường nói rằng những đứa trẻ ngoan là nhờ được người lớn công nhận và tán thưởng. Thường xuyên sử dụng những gợi ý tâm lý tích cực, giáo dục và khuyến khích trẻ một cách tử tế, trẻ sẽ có thể thực sự ngày càng trở nên xuất sắc và tự tin hơn. Ngược lại, nếu quý vị luôn chỉ trích và buộc tội trẻ một cách tiêu cực, trẻ sẽ có thể dần trở nên tự ti, thậm chí không chịu cầu tiến. Kỳ thực, cách nhìn của cha mẹ đối với con trẻ cũng đều là vật chất, chúng sẽ đi vào trường không gian vật chất của trẻ và ảnh hưởng đến sự trưởng thành cả đời của trẻ.
Thực ra, vật chất cũng có rất nhiều tầng nội hàm, bao gồm phân tử, nguyên tử, electron, proton, quark, neutrino v.v. Cho đến nay, các nhà vật lý vẫn chưa hoàn toàn nhận thức được vật chất nhỏ nhất rốt cuộc là gì. Hiện các nhà vật lý chưa đưa ra được một định nghĩa chính xác về vật chất, thì làm sao chúng ta có thể quả quyết rằng tinh thần không phải là vật chất? Hơn nữa, có rất nhiều rất nhiều vật chất cực kỳ vi mô mà mắt người không thể nhìn thấy, máy móc cũng không phát hiện được, nhưng chúng thực sự tồn tại.
Do đó, mặc dù tinh thần con người không thể nhìn thấy được bằng mắt thường, nhưng nó thực sự là một loại tồn tại vật chất, hơn nữa còn là một loại vật chất độc đáo đặc biệt, sở hữu các thuộc tính vật chất cơ bản. Rất nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng tinh thần có thể được cơ thể phát hiện, nhận thức, ghi nhớ và thậm chí di chuyển cùng với việc cấy ghép nội tạng; tinh thần cũng có thể ảnh hưởng đến DNA của con người và cũng có thể di truyền.
2.1 Điện não đồ trắc nghiệm được tinh thần
Các hoạt động tinh thần của con người thực sự có thể được phát hiện và ghi lại. Đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học thần kinh và tâm lý học, các khoa học gia đã phát triển rất nhiều kỹ thuật để nghiên cứu và tìm hiểu chức năng não bộ cũng như hoạt động tâm trí của con người.
Năm 1929, nhà sinh lý học người Đức Hans Berger (1873-1941) lần đầu tiên ghi lại được một loại hoạt động sóng điện trên sọ người. Đó là quá trình phóng điện của các tế bào thần kinh trong bộ não. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại ghi lại được sóng não. Nguyên lý chủ yếu là do sự phóng điện định kỳ của các tế bào thần kinh để tạo ra điện thế hoạt động và các trường điện từ có liên quan. Bộ não con người có khoảng 100 tỷ tế bào thần kinh, giống như có khoảng 100 tỷ thiết bị phát trường điện từ.
Điện não đồ (EEG) có nhiều dạng sóng khác nhau, khi con người ở các trạng thái tinh thần khác nhau và suy nghĩ về các vấn đề khác nhau thì sóng điện não đồ của con người cũng sẽ thay đổi.
Phương pháp phân loại dạng sóng EEG được sử dụng phổ biến nhất là dựa trên dải tần số, dạng sóng và các chữ số Hy Lạp để định danh. Thông thường có 5 dạng sóng điện não đồ sinh lý được nghiên cứu nhiều nhất, bao gồm sóng Delta (δ), sóng Theta (θ), sóng Alpha (α), sóng Beta (β) và sóng dao động tần số cao (HFO). [302]
- Sóng Delta là sóng não có tần số thấp nhất (0.5Hz~4Hz) và biên độ dao động lớn nhất. Sóng Delta thường xuất hiện trong các giấc ngủ sâu.
- Tần số của sóng Theta là 4Hz~7Hz, đại biểu cho trạng thái tinh thần thoải mái và thư thái cao độ khi một người tỉnh táo, chẳng hạn như khi tắm, cạo râu hoặc chải đầu. Nó cũng có thể xuất hiện trong trạng thái buồn ngủ và giai đoạn đầu của giấc ngủ.
- Tần số của sóng Alpha thông thường là từ 8Hz~12Hz, dễ xuất hiện nhất khi con người đang tỉnh táo, nhắm mắt và tinh thần thoải mái. Nó có thể được đo thấy lúc mọi người nghỉ ngơi sau khi hoàn thành một nhiệm vụ hoặc nghỉ ngơi giữa cuộc họp, hoặc khi đi dạo trong vườn, suy ngẫm hoặc thiền định.
- Tần số của sóng Beta là từ 13Hz~30Hz. Đây là tần số phổ biến nhất ở người lớn và trẻ em bình thường. Sóng Beta được tạo ra khi mọi người tỉnh táo và tích cực tham gia vào công việc, chẳng hạn như lên đọc diễn văn, dẫn chương trình hoặc giáo viên giảng bài.
- Sóng dao động tần số cao thường lớn hơn 30Hz, bao gồm một loại sóng gọi là Gamma (30Hz~80Hz), tương đối hiếm gặp ở người bình thường, nhưng có thể được đo thấy khi trường kỳ đả tọa thiền định.
Năm dạng sóng điện não đồ phổ biến (Ảnh: Epoch Times)
Như đã đề cập ở trên, vào năm 2004, Giáo sư Davidson của Đại học Wisconsin, Hoa Kỳ, đã công bố một bài luận văn nghiên cứu về những người trường kỳ thiền định. Nghiên cứu cho thấy, sóng não của những người này có sóng gamma rất mạnh, không chỉ trong khi thiền mà cả trạng thái bình thường hàng ngày của bộ não. Các nhà nghiên cứu có thể cảm nhận được sự thiện lương, khoan dung và bình hòa trong tính cách của họ. [303]
Người đang ngồi thiền cần phải buông bỏ những suy nghĩ hỗn tạp lúc bình thường và cố gắng đi vào trạng thái từ bi, tường hòa. Việc luyện tập thường xuyên như vậy sẽ phản ánh lên điện não đồ, tức là dạng sóng não đã thay đổi. Do đó, những người trường kỳ tu luyện, thiền định, có thể có sự khác biệt cơ bản về cấu trúc và năng lượng não bộ so với những người bình thường. Họ có thể thể hiện ra tướng mạo tinh thần của một người tu luyện có thành tựu.
Hiện tượng này rất thường thấy trong các môn thực hành thiền định khác nhau. Một nghiên cứu khác cũng phát hiện những người đã tham gia vào các môn thực hành thiền định truyền thống khác nhau trong một thời gian dài có biên độ sóng gamma cao hơn so với nhóm đối chứng. [304]
2.2 Phiên bản hiện đại của “độc tâm thuật”
Ngoài điện não đồ (EEG), các kỹ thuật như chụp cộng hưởng từ chức năng (fMRI) v.v. cũng có thể giúp các nhà nghiên cứu quan sát và ghi lại mô thức hoạt động của não người dưới một nhiệm vụ hoặc tình huống cụ thể. Những kỹ thuật này có ứng dụng quan trọng trong các lĩnh vực như y học, tâm lý học và khoa học thần kinh, v.v.
Các trạng thái tinh thần cũng có thể được phát hiện bằng những kỹ thuật chụp cộng hưởng từ tiên tiến hơn. Năm 2016, tập san sinh học PLOS đã công bố một nghiên cứu từ các nhà thần kinh học và bác sĩ tâm thần tại Đại học Duke. Họ có thể giải đọc cảm xúc của một người thông qua việc quét chức năng não, từ đó giải mã các trạng thái cảm xúc khác nhau trong não người, bao gồm hài lòng, vui mừng, bất ngờ, sợ hãi, tức giận, buồn bã, trung lập, v.v. [305]
2.3 Tinh thần có thể di truyền
Bệnh nhân tâm thần thường có tiền sử gia đình và một số vị trí đột biến gene cụ thể. Năm 2014, một nghiên cứu do tập đoàn Psychiatric Genomics Consortium (PGC) thực hiện đã được công bố trên tạp chí “Nature.” Các khoa học gia đã xác định được 108 gene liên quan đến bệnh tâm thần bằng cách so sánh gene của gần 40,000 người được chẩn đoán bị bệnh tâm thần phân liệt với gene của 110,000 người không bị bệnh tâm thần phân liệt. [306]
Bệnh tâm thần phân liệt có một đặc điểm di truyền rất quan trọng: họ hàng càng gần thì mức độ ảnh hưởng càng cao; thân nhân bậc 1 có tỷ lệ mắc bệnh tâm thần phân liệt cao nhất, tiếp theo là thân nhân bậc 2; họ hàng càng xa thì mức độ ảnh hưởng càng thấp.
Do đó, tinh thần không chỉ là một loại vật chất, mà một số thuộc tính vật chất của nó còn có thể được phản ánh ở cấp độ di truyền, có thể truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
2.4 Tinh thần có thể chuyển dịch
Trong y học có một hiện tượng rất thú vị: khi một người được ghép tim từ người khác, thì người đó thường thay đổi sở thích, cảm xúc, tính khí, trí nhớ và thậm chí cả thân phận cá nhân. Các đặc điểm tinh thần của một người có thể di chuyển cùng với nội tạng sang cơ thể của người được ghép nội tạng.
Chúng ta cùng xem một trường hợp y học thực tế cho thấy mối liên kết giữa các sinh mệnh không chỉ là cơ thể vật chất. Ví dụ này đáng để chúng ta suy nghĩ lại về định nghĩa của sinh mệnh.
2.4.1 Jerry đã thực sự qua đời chưa?
Jerry là một bé trai 16 tháng tuổi không may chết đuối trong bồn tắm. Một cháu bé 7 tháng tuổi khác tên Carter bị một dạng tứ chứng Fallot hiếm gặp, đây là một dị tật tim bẩm sinh cần được cấy ghép nội tạng mới có thể tiếp tục sống. Carter đã được cấy ghép trái tim của Jerry. [307]
Mẹ của Jerry là một bác sĩ. Về sau, cô kể lại rằng: “Carter đã 6 tuổi, nhưng cháu vẫn nói những từ trẻ con mà Jerry nói, và chơi đùa cùng tôi. Nó dụi mũi vào tôi giống ý như Jerry. Đêm đó chúng tôi ở lại với họ (gia đình của Carter). Nửa đêm, Carter đến và đòi ngủ với vợ chồng tôi. Thằng bé rúc vào giữa chúng tôi như Jerry từng làm, tôi và chồng tôi bắt đầu khóc. Carter bảo chúng tôi đừng khóc, cậu bé nói vì Jerry bảo rằng mọi chuyện đều ổn. Chồng tôi và tôi, cũng như cha mẹ chúng tôi và những người thực sự biết Jerry đều không nghi ngờ gì về điều đó. Trái tim của con trai chúng tôi chứa hầu hết tính cách của cháu, và đang đập trong lồng ngực của Carter. Từ một góc độ nào đó, con trai chúng tôi vẫn còn sống.”
Sau khi Carter tiếp nhận trái tim của Jerry, bất cứ khi nào mẹ của Jerry ở bên Carter, cô đều có thể cảm nhận được rằng Jerry vẫn còn sống. Điều này khiến cô cảm thấy rất chấn động. Cô là một người rất thận trọng và lý trí, nhưng cảm giác đó là thật và không cách nào giải thích được.
Tương tự như vậy, mẹ của Carter cũng nhận thấy mối liên hệ kỳ lạ giữa Carter và cha mẹ của Jerry. Mẹ của Carter phản hồi rằng: “Khi chúng tôi cùng nhau đến nhà thờ, Carter chưa từng gặp cha của Jerry. Chúng tôi đến trễ, và cha của Jerry đang ngồi với một nhóm người. Carter buông tay tôi và chạy thẳng tới đó. Thằng bé leo lên đùi của cha Jerry, ôm lấy anh ấy và hét lên, ‘Bố.’ Chúng tôi đều lặng người. Làm thế nào mà cháu biết anh ấy? Tại sao cháu lại gọi anh ấy là bố? Trước đây cháu chưa bao giờ làm bất cứ điều gì như thế, khi ở trong nhà thờ, cháu chưa bao giờ buông tay tôi, chưa bao giờ chạy theo người lạ. Khi tôi hỏi thằng bé tại sao lại làm như vậy, cháu nói cháu không làm thế. Cháu nói Jerry đã đi, và cháu cũng đi theo.”
Mẹ của Carter cũng cho biết: “Tôi thấy Carter bước đến gần cô ấy (mẹ của Jerry). Thằng bé không bao giờ làm như vậy. Thằng bé vốn rất nhút nhát, nhưng nó bước đến gần cô ấy giống như đã từng chạy đến chỗ tôi khi nó còn nhỏ vậy. Khi cháu thấp giọng nói ‘không sao đâu mẹ,’ tôi cảm thấy suy sụp. Cháu gọi cô ấy là ‘mẹ’, hoặc có thể đó là lời trong tâm của Jerry. Còn có một chuyện nữa làm chúng tôi xúc động. Khi trò chuyện với mẹ của Jerry, chúng tôi được biết Jerry bị bại não nhẹ, chủ yếu là nửa trái. Carter cũng bị cứng khớp và loạng choạng ở cùng bên (trái). Cháu chưa từng có hiện tượng này (trước khi cấy ghép tim), sau khi cấy ghép mới xuất hiện. Bác sĩ nói rằng điều này có thể liên quan đến tình trạng sức khỏe của cháu, nhưng tôi thực sự cho rằng còn nhiều nguyên do hơn.”
2.4.2 Thay đổi tính cách sau khi ghép tim
Kể từ khi ca cấy ghép tim đầu tiên trên người được thực hiện vào năm 1967, ngày càng có nhiều trường hợp những người được ghép tim có sự thay đổi về tính cách và sở thích.
Năm 2000, Tiến sĩ Paul Pearsall, Giáo sư điều dưỡng tại Đại học Hawaii, đã phân tích một cách có hệ thống và công bố hiện tượng thay đổi các đặc điểm tinh thần sau khi ghép tim. Trường hợp của Jerry và Carter ở trên cũng đến từ nghiên cứu của Tiến sĩ Pearsall. [308]
Cộng tác với ông là Tiến sĩ Gary Schwartz, Giáo sư tâm lý học, y học, thần kinh học, tâm thần học tại Đại học Arizona, và Tiến sĩ Linda Russek, trợ lý giáo sư lâm sàng tại Đại học Arizona.
Họ đã phỏng vấn và ghi lại nguyên văn cuộc trò chuyện với 10 “người nhận” (7 nam và 3 nữ trong khoảng từ 7 tháng đến 56 tuổi) được ghép tim (hoặc tim-phổi) cũng như người nhà và bạn bè của 10 “người hiến tặng” tương ứng của họ (5 nam và 5 nữ, tuổi từ 16 tháng đến 34 tuổi). Kết quả phát hiện, những người nhận tạng đã trải qua những thay đổi mang tính quy luật, bao gồm thay đổi về thói quen ăn uống, âm nhạc, nghệ thuật, thú vui giải trí và sở thích nghề nghiệp.
Tiến sĩ Pearsall quan sát thấy rằng, những người được ghép tim dường như là những người dễ bị thay đổi tính cách nhất. Sau khi phỏng vấn gia đình của người hiến tặng và thu thập thông tin về người nhận và gia đình của họ, các tác giả đã quan sát thấy mỗi trường hợp đều có từ hai đến năm điểm tương đồng.
Năm 2019, Bác sĩ tâm thần học Mitchell Liester ở Trường Y Đại học Colorado cũng đã tiến hành phân tích chuyên sâu về hiện tượng này. Bài luận văn “Những thay đổi về tính cách sau khi cấy ghép tim: Vai trò của trí nhớ tế bào” (Personality Changes Following Heart Transplantation: The Role of Cellular Memory) của ông đã được đăng trên tập san “Giả thuyết y học” (Medical Hypotheses). Ông Liester đã phát hiện một lượng lớn bằng chứng về những thay đổi ở người được ghép tạng, bao gồm (1) thay đổi sở thích; (2) thay đổi tâm trạng/tính khí; (3) thay đổi thân phận; (4) có ký ức cuộc sống của người hiến tạng. [309]
Sở thích, tính cách, ký ức và thậm chí cả thân phận của họ đã trở nên giống với những người hiến tạng.
- Thói quen ăn uống: Sau khi nhận được trái tim từ một người ăn chay 19 tuổi, người phụ nữ 29 tuổi chỉ cần ăn thịt là sẽ nôn ra, mặc dù trước đó cô ấy thích ăn thịt. Sau khi nhận được trái tim của một người biếng ăn, người đàn ông 47 tuổi trước đó ăn uống bình thường cũng thường cảm thấy buồn nôn sau khi ăn, khi ông ấy nôn ra, các triệu chứng mới thuyên giảm.
- Âm nhạc: Một cô gái 18 tuổi trước đây không biết chơi nhạc, cảm thấy phải học chơi guitar sau khi nhận được trái tim của một chàng trai chơi guitar. Một người đàn ông da trắng 47 tuổi trước đây ghét nhạc cổ điển, sau khi nhận trái tim của một nhạc sĩ tài năng thì bắt đầu yêu thích nhạc cổ điển.
- Nghệ thuật: Một nam nghiên cứu sinh 25 tuổi chưa bao giờ muốn đến bảo tàng, bỗng trở thành một người yêu nghệ thuật sau khi nhận trái tim của một nữ họa sĩ phong cảnh 24 tuổi.
- Thể thao: Một cậu bé 9 tuổi từng thích bơi lội đã trở nên ác cảm với nước sau khi nhận được trái tim của một bé gái 3 tuổi chết đuối trong bể bơi.
- Tính cách: Một người nhận trái tim cho biết: “Trái tim mới đã thay đổi tôi … Trái tim tôi nhận được là từ một người điềm tĩnh, không bối rối. Cảm giác của anh ấy giờ đây đã được truyền lại cho tôi.”
- Thân phận: Trường hợp của Jerry và Carter được mô tả ở trên thuộc về sự thay đổi thân phận. Cậu bé 5 tuổi biết được tên và tất cả các chi tiết về cái chết của người hiến tạng. Sau khi nhận được trái tim từ một cô gái khác cùng tuổi, một người 19 tuổi cho biết: “Tôi xem cô ấy như em gái của mình.” “Tôi nói chuyện với cô ấy vào ban đêm hoặc khi tôi buồn. Tôi cảm thấy cô ấy trả lời tôi. Tôi có thể cảm thấy ‘cô ấy’ ở ngực mình. Tôi đặt tay trái của mình ở đó và ấn nó bằng tay phải, như thể tôi có thể kết nối với cô ấy vậy.”
- Ký ức về danh tính và trải nghiệm giác quan của người hiến tạng. Ví dụ, một người cho tạng bị bắn vào mặt và tử vong. Người nhận tạng nằm mộng thấy một luồng nhiệt phả vào mặt mình.
Bác sĩ Liester phát hiện những người được ghép tim dễ gặp loại thay đổi này nhất. Ông nhận thấy những điểm tương đồng nhất định giữa não và tim, hệ thống tế bào thần kinh phức tạp trong tim thường được gọi là “tim-não.”
Các nhà nghiên cứu cho rằng những thay đổi về đặc điểm tinh thần của những người được ghép tim sẽ khá hợp lý khi được giải thích bằng trí nhớ của tế bào. Bài luận văn trên tập san “Giả thuyết y học” cũng thảo luận về lý do dẫn đến những thay đổi về đặc điểm tinh thần sau khi ghép tim. Bài viết cho rằng việc người nhận có được các đặc điểm tính cách của người hiến tặng sau khi ghép tim là nhờ cơ chế tồn trữ trí nhớ của tế bào. Luận văn cũng đưa ra sáu loại cơ chế tồn trữ bộ nhớ tế bào khả thi: bộ nhớ di truyền biểu sinh, bộ nhớ DNA, bộ nhớ RNA, bộ nhớ protein, bộ nhớ thần kinh bên trong, và bộ nhớ năng lượng.
Trong một bài báo trên tạp chí “Khoa học Mỹ” (Scientific American) của tác giả Jennifer Frazer, có bằng chứng cho thấy các tế bào “ghi nhớ” nhiều hơn chúng ta nghĩ. Cô cho biết: “Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta vứt bỏ những quan niệm cố hữu về khả năng của tế bào, thay vì [vứt bỏ] những kết quả thí nghiệm gây bất ngờ.” [310]
Tiến sĩ Larry Dossey, cựu giám đốc bệnh viện Medical City Dallas kiêm biên tập viên của “Tạp chí Khám phá Khoa học và Chăm sóc sức khỏe” (Journal of Science and Healthcare Exploration), đã đưa ra một cách giải thích khác bên cạnh giả thuyết bộ nhớ tế bào. Đó là “ý thức phi cục bộ” (nonlocal mind). Ông đề cập đến một loại tồn tại tinh thần siêu việt không gian và thời gian, vượt qua những ràng buộc của thời gian và không gian, không bị ràng buộc bởi cơ thể hoặc tâm trí.
Tác giả cho rằng lý thuyết này cũng có thể giúp giải thích hiện tượng luân hồi. Ký ức và đặc điểm khi luân hồi có thể được truyền từ cơ thể này sang cơ thể khác mà không cần cấy ghép nội tạng. Điều này cho thấy việc cấy ghép nội tạng có thể là thứ yếu mà không phải là điều kiện tất yếu, sự truyền thừa thực sự là thông qua “ý thức phi cục bộ.” [311]
Các khoa học gia giải thích rằng suy nghĩ hay tính cách của chúng ta cũng giống như một loại vật chất được lưu trữ trong các cơ quan của cơ thể. Hay nói cách khác, cơ thể chúng ta chỉ là nơi chứa đựng những vật chất như tinh thần hay suy nghĩ của chúng ta mà thôi.
Nếu tinh thần không phải là một loại vật chất, thì làm sao nó có thể được lưu trữ, ghi nhớ hoặc thậm chí được chuyển giao bởi các cơ quan như não hoặc tim của chúng ta? Thuộc tính vật chất này của tinh thần rất quan trọng. Chỉ khi chúng ta có thể hiểu và nhận ra bản chất vật chất của tinh thần, chúng ta mới có thể trả lời câu hỏi cuối cùng về nguồn gốc nhân loại – con người chúng ta rốt cuộc đến từ đâu?
3. Tinh thần tồn tại tương đối độc lập với bộ não
Là một loại vật chất, tinh thần là thành phần quan trọng không thể tách rời của cơ thể con người. Là một vật chất đặc biệt, tinh thần có một đặc trưng rõ ràng: nó tương đối độc lập, có thể phát huy tác dụng tương đối độc lập với bộ não, thậm chí tồn tại độc lập với cơ thể con người.
3.1 Gợi ý từ “Nghiên cứu về các nữ tu”
Để khám phá cơ chế phát sinh và các phương pháp phòng ngừa bệnh Alzheimer trong xã hội phương Tây, nhà dịch tễ học người Mỹ, Tiến sĩ David Snowdon đã bắt đầu chủ trì “Nghiên cứu về các nữ tu” vào năm 1986. Đây là một nghiên cứu dài hạn kéo dài đến 30 năm.
Nghiên cứu này đã chọn 678 nữ tu từ Đại học Công giáo La Mã tại Notre Dame ở Hoa Kỳ, bởi vì họ có lối sống, thói quen ăn uống, trình độ giáo dục và sức khỏe tương tự nhau, đồng thời sẵn sàng hiến tặng bộ não của mình sau khi qua đời để các nhà khoa học nghiên cứu.
Nghiên cứu đã phát hiện ra một số điều đáng ngạc nhiên: ngay cả khi những thay đổi bệnh lý của bệnh Alzheimer đã xuất hiện trong não, chẳng hạn như lắng đọng amyloid và đám rối sợi thần kinh, nhưng không phải ai cũng xuất hiện các triệu chứng sa sút trí tuệ.
Trong một số trường hợp, mặc dù não đã bị thoái hóa khá nhiều nhưng người đó vẫn sống đến cuối đời mà không mắc chứng mất trí nhớ. Nữ tu Mary là một ví dụ điển hình. Mặc dù não của bà có rất nhiều tổn thương điển hình của bệnh Alzheimer như các đám rối sợi thần kinh (neurofibrillary tangles) và lắng đọng amyloid (senile plaques), nhưng bà vẫn có điểm kiểm tra nhận thức rất cao trước khi qua đời ở tuổi 101. [312]
Các nhà nghiên cứu phát hiện, có một số yếu tố có thể đã bảo vệ các nữ tu khỏi ảnh hưởng của bệnh Alzheimer. Phần lớn các yếu tố bảo vệ này đều liên quan đến tinh thần của họ. Theo đánh giá đối với tự truyện do các nữ tu viết, nếu trong những năm đầu đời họ có mật độ ý tưởng (idea density) hoặc độ phức tạp ngữ pháp (grammatical complexity) khá thấp, thì điểm kiểm tra nhận thức trong những năm cuối đời cũng khá thấp, hai cái này có mối quan hệ với nhau. Bệnh học thần kinh đã chứng thực rằng trong số 14 nữ tu chị em qua đời, tất cả những người có mật độ suy nghĩ thấp trong những năm đầu đời đều có triệu chứng của bệnh Alzheimer, trong khi những người có mật độ suy nghĩ cao thì không. [313]
Ngoài ra, hầu hết các nữ tu đều sống trong một cộng đồng hỗ trợ, quan tâm và duy trì liên lạc mật thiết với người khác. Những giao tiếp xã hội lương thiện này đã giúp giảm bớt những cảm xúc tiêu cực như căng thẳng, cô đơn và trầm cảm, đồng thời tăng cường sức khỏe não bộ.
Giáo sư Netta Weinstein tại Học viện Khoa học Ngôn ngữ Tâm lý và Lâm sàng của Đại học Cardiff ở Vương quốc Anh đã cùng các chuyên gia khác nghiên cứu sâu hơn các bài tự truyện của các nữ tu vào những thời điểm quan trọng trong cuộc đời của họ, để tìm hiểu mối quan hệ giữa định hướng tự chủ và tuổi thọ. Họ phát hiện, các hành vi tự điều chỉnh bản thân một cách thiện lương của các nữ tu như tham gia vào đoàn thể nữ tu một cách trật tự, kiên trì không giải đãi, tự nhìn lại bản thân, học hỏi và trưởng thành từ những thử thách và khắc phục khó khăn v.v. có liên quan đến tuổi thọ của họ. [314]
Nói tóm lại, những nghiên cứu này đã nói lên rằng khi những thay đổi bệnh lý xảy ra trong cấu trúc não, bộ não không nhất định sẽ xuất hiện quá trình suy giảm chức năng. Trạng thái tinh thần của một người không nhất định là do cơ thể quyết định, và nó dường như cũng giúp tránh khỏi những hậu quả có thể xảy ra do tổn thương cấu trúc.
3.2 Nghiên cứu về “người không não”
Năm 1980, tạp chí “Khoa học” đã kể lại một trường hợp y học đáng kinh ngạc như sau [315]:
Một sinh viên đại học có thành tích xuất sắc và bằng toán học hạng nhất, chỉ số IQ cao tới 126 (cao hơn người bình thường, chỉ số IQ thông thường là 100). Cậu cũng có những kỹ năng xã hội hoàn toàn bình thường.
Có một lần, các bác sĩ nhận thấy đầu của sinh viên này hơi to hơn bình thường nên đã tiến hành chụp não cho cậu. Kết quả là các bác sĩ đã rất ngạc nhiên khi phát hiện mô não của sinh viên này đã bị co lại nghiêm trọng đến mức chỉ dày 1mm, trong khi mô não bình thường dày tới 4.5cm. Cậu sinh viên này đã bị teo não sau khi bị bệnh não úng thủy nghiêm trọng, cậu gần như là một người không có não, thường được gọi là “người không não.”
Người bình thường có não trái, não phải và dịch não tủy trong hộp sọ. Dịch não tủy là một chất lỏng trong suốt được tổng hợp, lưu thông liên tục trong não và tủy sống. Tuy nhiên, có một nhóm người mắc phải dị tật “nứt đốt sống,” khiến dịch não tủy chảy vào não mà không ra khỏi được, liên tục tích tụ trong não gây ra bệnh não úng thủy. Phần còn lại của não sẽ không ngừng mỏng đi dưới áp lực của chất lỏng, khiến mô não bình thường được thay thế bằng dịch não tủy; trong những trường hợp nghiêm trọng, thậm chí não chỉ còn lại một lượng rất nhỏ.
Tình huống như của người sinh viên này không chỉ có một. Bệnh viện Nhi của Đại học Sheffield ở Anh là một trong những trung tâm điều trị tật nứt đốt sống cho trẻ em lớn nhất thế giới. Ông John Lorber (1915-1996), Giáo sư thần kinh học tại Đại học Sheffield, là chuyên gia nghiên cứu về bệnh não úng thủy. Ông đã phân tích một cách có hệ thống các trường hợp của hơn 600 trẻ em bị căn bệnh này. Những trẻ em này bị bệnh ở mức độ từ nhẹ đến nặng, có một số nghiêm trọng đến mức 95% não của các em chứa đầy “nước.”
Tuy nhiên, ông phát hiện trong số những trẻ bị não úng thủy nặng nhất, có đến một nửa có chỉ số IQ cao hơn 100, cuộc sống và học tập của các em không khác gì người bình thường. Trường hợp của những trẻ em này khiến mọi người không khỏi chú ý. Những trẻ em bị bệnh não úng thủy và teo não nặng này không chỉ có kỹ năng xã hội bình thường mà còn có thể đạt thành tích học tập xuất sắc. Mặc dù kết quả nghiên cứu của giáo sư John Lorber không chứng minh được rằng con người không cần bộ não, nhưng đã khẳng định con người có thể tiếp tục sống bình thường và thậm chí có trí thông minh siêu phàm kể cả khi bộ não rất nhỏ hoặc gần như không tồn tại.
Trong lĩnh vực thần kinh học, có một hiện tượng đã được chú trọng từ lâu gọi là “kiểm soát đối bên,” tức là bán cầu não trái điều khiển nửa cơ thể bên phải, còn bán cầu não phải điều khiển nửa cơ thể bên trái. Sự kiểm soát đối bên này là do cấu trúc đan chéo của các sợi thần kinh bên trong não. Hiện tượng này là một lý thuyết quan trọng trong thần kinh học, giúp chúng ta hiểu được mối quan hệ giữa chức năng não và giải phẫu học, đồng thời có những ứng dụng quan trọng trong chẩn đoán và điều trị y tế.
Nếu chiểu theo nguyên tắc này, thì các trường hợp não úng thủy bất đối xứng sẽ có biểu hiện bất thường về chức năng của cơ thể ở bên đối diện, chẳng hạn như liệt hoặc co cứng. Tuy nhiên, điều khiến mọi người không thể lý giải là, giáo sư John Lorber phát hiện ra rằng trong số hơn 50 trường hợp não úng thủy bất đối xứng, chỉ một số ít gặp phải tình trạng tê liệt hoặc co cứng như dự kiến. Giáo sư John Lorber nói trong báo cáo rằng: “Điều này hoàn toàn trái ngược với mọi thứ chúng tôi được dạy ở trường y.”
3.3 Ý thức của con người rốt cuộc đến từ đâu?
Trường hợp của những “người không não” nhắc nhở chúng ta rằng, sự hiểu biết của con người về hoạt động của bộ não vẫn còn rất hạn chế. Chúng ta thường cho rằng tinh thần con người xuất phát từ bộ não, và tư duy của con người hoàn toàn do bộ não điều khiển. Điều này kỳ thực là sai lầm. Phương pháp quy nạp trong logic có thể “phủ định” một lý thuyết; chỉ cần có một trường hợp thực tế về một người hầu như không có não nhưng hiệu suất làm việc vẫn bình thường, thì về cơ bản đã có thể chứng minh lý thuyết “con người làm việc dựa vào bộ não” là sai lầm.
Nếu như ý thức, khả năng nhận thức và trí tuệ của con người không đến từ đại não, vậy thì ý thức của con người rốt cuộc đến từ đâu?
Sau khi xem nghiên cứu của giáo sư John Lorber, rất nhiều nhà thần kinh học đã đề nghị giả thuyết rằng có thể có một “bộ não tầng sâu” vô hình trong cơ thể con người. Họ cho rằng các chức năng của não không chỉ được thực hiện bởi vỏ não, thứ mà chúng ta có thể quan sát được.
Giáo sư giải phẫu học Patrick Wall ở Đại học London nhận xét rằng: “Mấy trăm năm qua, các nhà thần kinh học luôn cho rằng tất cả những khám phá về chức năng não mà họ xem trọng đều do vỏ não thực hiện. Nhưng thực tế là, rất nhiều chức năng được cho là thuộc về vỏ não lại có thể là do các cấu trúc sâu hơn của não thực hiện.”
Bác sĩ khoa thần kinh Norman Geschwind của Bệnh viện Beth Israel trực thuộc Đại học Harvard cho biết: “Không nghi ngờ gì nữa, các cấu trúc tầng sâu của não rất quan trọng đối với nhiều chức năng”.
Giáo sư sinh lý thần kinh David Bowsher tại Đại học Liverpool ở Anh cho biết: “Gần như chắc chắn rằng các cấu trúc tầng sâu trong não quan trọng hơn những gì chúng ta nghĩ hiện nay.”
Năm 2006, học giả người Mỹ Jay Alfred đã đưa ra một “bộ não vô hình” trong cuốn sách “Bộ não và thực tế” (Brain and Realities) [316]. Trong cuốn sách “Các cơ thể vô hình của chúng ta: Bằng chứng khoa học về các cơ thể vi tế” (Our Invisible Bodies: Scientific Evidence for Subtle Bodies), ông đã tổng kết những bằng chứng khoa học cho thấy con người có “cơ thể vô hình” [317].
Đối với hiện tượng “người không não,” năm 2015, nhà hóa sinh người Anh Donald R. Forsdyke cho rằng: “Ý thức có thể được ‘lưu trữ ở một số dạng hạ nguyên tử cực nhỏ. Thành phần của nó là điều mà các nhà hóa sinh và sinh lý học vẫn chưa thể biết, hoặc có lẽ nó được lưu trữ ‘bên ngoài cơ thể chúng ta.’ Khi nói đến ký ức [lưu trữ] bên ngoài cơ thể, chúng ta đã chạm đến lĩnh vực trừu tượng hơn là ‘tâm linh’ và ‘tinh thần,’ hàm chứa ý nghĩa tương ứng về siêu hình học.” [318]
3.4 Người từng đạt giải Nobel cho rằng: tinh thần hay linh hồn tồn tại độc lập với bộ não
Các loại hiện tượng đa dạng nêu trên là những vấn đề mà khoa học sinh vật hiện đại chưa thể giải thích, nhưng cũng không thể tránh được và bắt buộc phải đối mặt.
Việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa bộ não và tinh thần – “vấn đề của ý thức” – được nhiều người xem là câu hỏi cuối cùng của khoa học thần kinh. Vào thế kỷ trước, một nhà thần kinh học danh tiếng từng đạt giải Nobel về Sinh lý học và Y học vào năm 1963 đã trả lời câu hỏi này một cách rất chắc chắn.
Sir John Carew Eccles (1903-1997) là một nhà sinh lý học thần kinh người Úc, ông tốt nghiệp Đại học Melbourne với bằng danh dự hạng nhất về y học. Năm 1925, ông vào Trường Cao đẳng Magdalen, Đại học Oxford với tư cách là Học giả Rhodes thời Victoria. Năm 1927, Eccles đạt được giải thưởng hạng nhất về khoa học tự nhiên, trở thành trợ lý nghiên cứu của nhà sinh lý học thần kinh người Anh Charles Scott Sherrington (1857-1952), người đạt giải Nobel về Sinh lý học và Y học vào năm 1932. Eccles nghiên cứu về phản xạ thần kinh, và đã cùng Sherrington xuất bản 8 bài luận. Eccles tập trung vào synapse trong hệ thần kinh, thành quả nghiên cứu đã mang đến cho ông giải thưởng Nobel về Y học vào năm 1963.
Eccles tin rằng mọi bằng chứng đều cho thấy “ý thức” và “bộ não” của con người là hai thực thể độc lập. Con người có một loại ý thức phi vật chất và độc lập với bộ não – đó chính là “linh hồn.” Ý thức bao gồm những gì chúng ta gọi là tinh thần hay linh hồn. Ông cho rằng mối quan hệ giữa “linh hồn” và “bộ não” có thể hiểu là hai chiếc đồng hồ chuyển động song song hoàn toàn đồng bộ do Đấng Tạo Hóa tạo ra, điều đó chứng tỏ sức sáng tạo phi thường của Đấng Tạo Hóa. [320]
Một nghiên cứu vào năm 1992 về trải nghiệm cận tử của những người sống sót sau trận động đất Đường Sơn đã được công bố trên “Tạp chí Tinh thần và Thần kinh học Trung Quốc.” Trong đó cho thấy khi một số người cận kề cái chết, họ vẫn có thể quan sát rõ ràng mọi thứ đang diễn ra xung quanh mình, thậm chí có thể nhìn thấy cơ thể vật lý của mình từ bên ngoài thân thể. Điều này khiến các nhà nghiên cứu tin rằng, ngoài cơ thể vật chất có thể nhìn thấy bằng mắt thường, con người còn có một phần “cơ thể vô hình.” Mà phần “cơ thể vô hình” đó, hay còn gọi là “linh hồn,” có thể tách rời khỏi nhục thân. Chúng tôi sẽ thảo luận chi tiết về chủ đề này ở trong Chương 5. [321]
3.5 Tinh thần chỉ huy bộ não
Sự hiểu biết của con người về bộ não vẫn còn rất hạn chế. Cho đến nay, người ta vẫn chưa rõ ràng ý thức của con người đến từ đâu, và bộ não rất có thể đã hoạt động theo một cơ chế mà chúng ta không thể tưởng tượng được.
Một nghiên cứu vào năm 2013 ở Nhật Bản và Đức [322] đã sử dụng siêu máy tính Fujitsu K, siêu máy tính nhanh thứ tư trên thế giới vào thời điểm đó, để mô phỏng hoạt động não bộ của con người. Nghiên cứu đã sử dụng hơn 700,000 lõi xử lý và 1.4 triệu gigabyte bộ nhớ để mô phỏng sự tương tác giữa 1.73 tỷ tế bào thần kinh và hơn 10 ngàn tỷ synapse (kết nối các tế bào thần kinh), tương đương với 1% mạng lưới thần kinh của bộ não con người. Nghiên cứu cho thấy máy tính K phải mất 40 phút để mô phỏng một giây hoạt động của não trên các tế bào thần kinh và synapse này. Nghiên cứu đã được trang tin công nghệ GigaOm.com đưa tin vào năm 2013 [323].
Nghiên cứu này được thực hiện trong khuôn khổ “Dự án Não người” (Human Brain Project), một chương trình khoa học kéo dài 10 năm do EU tài trợ nhằm sử dụng siêu máy tính để mô phỏng cấu trúc và chức năng của não người. [324]
Bộ não con người là một hệ thống lưu trữ và xử lý thông tin siêu phàm và cực kỳ hiệu quả. Làm thế nào mà bộ não có được khả năng xử lý thông tin hiệu quả cao như vậy? [325]
Từ góc độ tế bào phân tử, tế bào não chủ yếu bao gồm tế bào thần kinh và tế bào thần kinh đệm, mối quan hệ giữa chúng giống như mối quan hệ mật thiết giữa quốc vương và các đại thần phò tá. Bộ não con người trung bình chứa 8.6×10¹⁰ (86 tỷ) tế bào thần kinh và 8.5×10¹⁰ (85 tỷ) tế bào thần kinh đệm.
Synapse là thành phần chính của mạng lưới thần kinh, là liên kết chủ yếu giữa các tế bào não (còn được gọi là “tế bào thần kinh”), phát huy tác dụng then chốt trong việc xử lý thông tin, tham gia học tập, ghi nhớ và các hoạt động thần kinh khác. Não người trung bình có khoảng 2.4×10¹⁴ synapse, có thể xử lý dữ liệu với tốc độ 5.5×10¹⁶ bit/giây.
Mô phỏng của siêu máy tính chỉ là dựa trên tín hiệu điện giữa tế bào thần kinh và synapse mà không tính đến các yếu tố khác ảnh hưởng đến hoạt động của não, chẳng hạn như các chất hóa học bên trong và bên ngoài tế bào thần kinh, biểu hiện gene, lưu lượng máu, v.v. Khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin cũng như trí tuệ chứa đựng trong bộ não rõ ràng rất khác so với trí tuệ nhân tạo. Trên thực tế, bộ não con người và máy tính có một sự khác biệt về bản chất. Sự phát triển của não bộ rõ ràng không phải là điều có thể giải thích được bằng giả thuyết tiến hóa của Darwin. Vậy nó đến như thế nào? Phân tích từ mặt logic, nó chỉ có thể được thiết kế và tạo ra bởi một loại sinh mệnh cao cấp vượt xa trí tuệ của con người.
Nhưng câu hỏi đặt ra là, tại sao bộ não con người lại được thiết kế để trở thành một công cụ xử lý và gia công thông tin hiệu quả như vậy?
Như đã đề cập ở trên, tinh thần là một loại vật chất, tinh thần tương đối độc lập với bộ não và thường điều khiển cơ thể con người thông qua não. Do đó, não cần xử lý thông tin từ tinh thần một cách hiệu quả với sự trợ giúp của một loại cơ chế đặc biệt mà hiện nay chúng ta chưa thể tưởng tượng đến được.
Mặc dù phần lớn cấu trúc của bộ não có thể tiêu mất, nhưng do cơ chế xử lý thông tin tinh thần “vô hình” vẫn tồn tại nên con người vẫn có thể học tập, sinh sống và làm việc, chẳng hạn như những ví dụ về “người không não” và các nữ tu nêu trên. Trong đại dịch COVID-19, não của một số bệnh nhân đã bị virus làm tổn thương từ 2% đến 3% và xuất hiện nhiều triệu chứng khác nhau như suy giảm nhận thức. Một số bệnh nhân sa sút trí tuệ không thể tự chăm sóc bản thân do teo não một phần [326]. Lý do là gì? Có lẽ điểm khác biệt chính là liệu “tầng não sâu” mà chúng ta nhìn không thấy có bị tổn thương hay không.
Nếu so sánh bộ não với một chiếc máy tính thì tinh thần có thể được so sánh với “chủ nhân” vận hành chiếc máy tính. Tinh thần giống như người chỉ huy, chỉ đạo bộ não vận hành bằng cách nhập thông tin chỉ lệnh. Thông tin đến từ tinh thần tại một chiều không gian khác rất phức tạp, cần được não xử lý một cách hiệu quả. Vì vậy, bộ não con người phải có khả năng hoạt động mạnh mẽ, như vậy mới có thể tiếp nhận và xử lý thông tin từ tinh thần hoặc linh hồn một cách hiệu quả.
Sự phối hợp giữa tinh thần và cơ thể giống như một trò múa rối, con rối trên sân khấu giống như “thân thể,” còn người điều khiển con rối ở hậu trường giống như “tinh thần” của con người. Thế giới giống như một sân khấu lớn, cơ thể con người biểu diễn trên sân khấu, nhưng “tinh thần” điều khiển cơ thể ở phía sau mới là nhân vật chính thực sự.
3.6 Tinh thần của con người không thể từ tiến hóa mà thành
Ngoài các cấu trúc cơ quan mà mắt người có thể nhìn thấy, còn có tinh thần và linh hồn mà mắt người không thể nhìn thấy, nhưng chúng thực sự tồn tại. Vì chúng đều là những thành phần của cơ thể con người, vậy nên để trả lời câu hỏi về nguồn gốc của con người, chúng ta phải xem xét chúng cùng nhau, chứ không thể chỉ xem xét cấu tạo vật chất của cơ thể. Tuy nhiên, cả tinh thần và linh hồn đều đã bị giả thuyết tiến hóa cố ý hay vô tình tránh né hoặc bỏ qua.
Nhà hóa học và tác giả người Anh David Jones (1938-2017) đã thảo luận về chủ đề này một cách hài hước trong một bình luận trên tạp chí “Nature” hồi tháng 09/2001. Ông cho rằng nếu linh hồn là từ tiến hóa mà thành, thì dùng logic thông thường sẽ dẫn đến những kết luận khiến người ta dở khóc dở cười. [327]
Ông Jones chỉ ra rằng gene được xem là cơ sở phân tử quan trọng tạo nên sự khác biệt giữa con người và các loài động vật khác. Vậy gene nào mã hóa cho linh hồn của con người? Gene của con người đã được giải trình tự một cách hoàn chỉnh, tại sao vẫn chưa tìm được gene mã hóa linh hồn?
Ngoài ra, như chúng tôi đã trình bày và phân tích ở trên, tinh thần của con người là một loại vật chất đặc biệt, không thể nhìn thấy bằng mắt thường và là thành phần quan trọng của cơ thể con người. Tuy nhiên, Darwin chưa bao giờ chứng minh được quá trình con người “tiến hóa” ra tinh thần như thế nào. Đây là một lỗ hổng rất lớn trong “giả thuyết tiến hóa” của Darwin. Trên thực tế, tinh thần và linh hồn hoàn toàn không phải xuất thân từ tiến hóa.
(Còn tiếp)
Tài liệu tham khảo:
- Britannica, The Editors of Encyclopaedia. “anatomy”. Encyclopedia Britannica, 6 Apr. 2023, https://www.britannica.com/science/anatomy. Accessed 17 June 2023.
- Britannica, The Editors of Encyclopaedia. “Herophilus”. Encyclopedia Britannica, 30 Nov. 2018, https://www.britannica.com/biography/Herophilus. Accessed 17 June 2023.
- Heydenreich, Ludwig Heinrich. “Leonardo da Vinci”. Encyclopedia Britannica, 14 Jun. 2023, https://www.britannica.com/biography/Leonardo-da-Vinci. Accessed 17 June 2023.
- Florkin, Marcel. “Andreas Vesalius”. Encyclopedia Britannica, 28 May. 2023, https://www.britannica.com/biography/Andreas-Vesalius. Accessed 17 June 2023.
- De Humani Corporis Fabrica Libri Septem. (2023, March 9). In Wikipedia.https://en.wikipedia.org/wiki/De_Humani_Corporis_Fabrica_Libri_Septem
- THE MICROSCOPE. The development of the microscope allowed scientists to make new insights into the body and disease. Published: 19 August 2019.https://www.sciencemuseum.org.uk/objects-and-stories/medicine/microscope#:~:text=It’s
- Britannica, The Editors of Encyclopaedia. “Antonie van Leeuwenhoek”. Encyclopedia Britannica, 23 Mar. 2023, https://www.britannica.com/biography/Antonie-van-Leeuwenhoek. Accessed 17 June 2023.
- Britannica, The Editors of Encyclopaedia. “Matthias Jakob Schleiden”. Encyclopedia Britannica, 1 Apr. 2023, https://www.britannica.com/biography/Matthias-Jakob-Schleiden. Accessed 17 June 2023.
- Britannica, The Editors of Encyclopaedia. “Theodor Schwann”. Encyclopedia Britannica, 7 Jan. 2023, https://www.britannica.com/biography/Theodor-Schwann. Accessed 17 June 2023.
- Cuffe, Michael, Staehelin, L. Andrew , Chow, Christopher , Slack, Jonathan M.W. , Bernfield, Merton R. , Stein, Wilfred D. , Laskey, Ronald A. , Cooper, John A. , Lodish, Harvey F. and Alberts, Bruce M.. “cell”. Encyclopedia Britannica, 30 Mar. 2023, https://www.britannica.com/science/cell-biology. Accessed 17 June 2023.
- Schwann, Theodor. Mikroskopische Untersuchungen über die Uebereinstimmung in der Struktur und dem Wachsthum der Thiere und Pflanzen / Von Th. Schwann. Mit vier Kupfertafeln. 1839.https://iiif.wellcomecollection.org/pdf/b29287455; https://wellcomecollection.org/works/bknnmj2k
- E. Ashworth Underwood. Britannica, “Rudolf Virchow” German scientist. Fact-checked by The Editors of Encyclopaedia, https://www.britannica.com/biography/Matthias-Jakob-Schleiden. Accessed 17 June 2023.
- Britannica, The Editors of Encyclopaedia. “molecule”. Encyclopedia Britannica, 25 Aug. 2022, https://www.britannica.com/science/molecule. Accessed 17 June 2023.
- Koshland, Daniel E. and Haurowitz, Felix. “protein”. Encyclopedia Britannica, 1 Jun. 2023, https://www.britannica.com/science/protein. Accessed 17 June 2023.
- Britannica, The Editors of Encyclopaedia. “nucleoside”. Encyclopedia Britannica, 17 Apr. 2014, https://www.britannica.com/science/nucleoside. Accessed 17 June 2023.
- Ross, Sydney. “John Dalton”. Encyclopedia Britannica, 20 Apr. 2023, https://www.britannica.com/biography/John-Dalton. Accessed 17 June 2023.
- Coley, Noel G.. “Amedeo Avogadro”. Encyclopedia Britannica, 5 Aug. 2022, https://www.britannica.com/biography/Amedeo-Avogadro. Accessed 17 June 2023.
- Pauling, Linus C. and Lagowski, J.J.. “periodic table”. Encyclopedia Britannica, 15 May. 2023, https://www.britannica.com/science/periodic-table. Accessed 17 June 2023.
- George Paget Thomson. J.J. Thomson. British physicist. Fact-checked by The Editors of Encyclopaedia, https://www.britannica.com/biography/J-J-Thomson Accessed 17 June 2023.
- Britannica, The Editors of Encyclopaedia. “electron”. Encyclopedia Britannica, 9 Jun. 2023, https://www.britannica.com/science/electron. Accessed 17 June 2023.
- Britannica, The Editors of Encyclopaedia. “neutron”. Encyclopedia Britannica, 21 Apr. 2023, https://www.britannica.com/science/neutron. Accessed 17 June 2023.
- Britannica, The Editors of Encyclopaedia. “proton”. Encyclopedia Britannica, 30 May. 2023, https://www.britannica.com/science/proton-subatomic-particle. Accessed 17 June 2023.
- The Editors of Encyclopaedia. Quark. Subatomic particle. https://www.britannica.com/science/quark Accessed 6 July 2023.
- Britannica, The Editors of Encyclopaedia. “neutrino”. Encyclopedia Britannica, 27 May. 2023, https://www.britannica.com/science/neutrino. Accessed 17 June 2023.
- Fang, F. C., & Casadevall, A. (2011). Reductionistic and Holistic Science. Infection and Immunity, 79(4), 1401-1404.https://doi.org/10.1128/IAI.01343-10
- Britannica. Surface tension. Physics. Last Updated: Jun 23, 2023. Written and fact-checked by The Editors of Encyclopaedia Britannica.https://www.britannica.com/science/surface-tension
- CHRISTOPHER WANJEK. Systems Biology as Defined by NIH. An Intellectual Resource for Integrative Biology.https://irp.nih.gov/catalyst/19/6/systems-biology-as-defined-by-nih#:~:text=Systems%20biology%20is%20an%20approach,involves%20taking%20the%20pieces%20apart
- Lutz, A., Greischar, L. L., Rawlings, N. B., Ricard, M., & Davidson, R. J. (2004). Long-term meditators self-induce high-amplitude gamma synchrony during mental practice. Proceedings of the National Academy of Sciences, 101(46), 16369-16373.https://doi.org/10.1073/pnas.0407401101
- Chandran, V., Bermúdez, M. L., Koka, M., Chandran, B., Pawale, D., Vishnubhotla, R., … & Sadhasivam, S. (2021). Large-scale genomic study reveals robust activation of the immune system following advanced Inner Engineering meditation retreat. Proceedings of the National Academy of Sciences, 118(51), e2110455118.https://www.pnas.org/doi/epdf/10.1073/pnas.2110455118
- Elizabeth Ireland. UCSD Receives $10M for Study on How Meditation May Combat Disease. May 17, 2023.https://timesofsandiego.com/health/2023/05/17/ucsd-receives-10m-for-study-on-how-meditation-may-combat-disease/
- Li, T., Tang, B. Q., Zhang, W. B., Zhao, M., Hu, Q., & Ahn, A. (2021). In Vivo Visualization of the Pericardium Meridian with Fluorescent Dyes. Evidence-based complementary and alternative medicine : eCAM, 2021, 5581227.https://doi.org/10.1155/2021/5581227
- 医学百科 人体穴位 合穴 http://cht.a-hospital.com/w/%E5%90%88%E7%A9%B4. Accessed on 25-June-2023.
- Nayak CS, Anilkumar AC. EEG Normal Waveforms. [Updated 2023 Apr 16]. In: StatPearls [Internet]. Treasure Island (FL): StatPearls Publishing; 2023 Jan-. Available from: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK539805/
- Superhumans: The remarkable brain waves of high-level meditators | Daniel Goleman | Big Think.https://www.youtube.com/watch?v=10J6crRacZg
- Braboszcz, C., Cahn, B. R., Levy, J., Fernandez, M., & Delorme, A. (2016). Increased Gamma Brainwave Amplitude Compared to Control in Three Different Meditation Traditions. PLoS ONE, 12(1).https://doi.org/10.1371/journal.pone.0170647
- Kragel PA, Knodt AR, Hariri AR, LaBar KS (2016) Decoding Spontaneous Emotional States in the Human Brain. PLoS Biol 14(9): e2000106.https://doi.org/10.1371/journal.pbio.2000106
- Schizophrenia Working Group of the Psychiatric Genomics Consortium. (2014). Biological insights from 108 schizophrenia-associated genetic loci. Nature, 511(7510), 421-427.https://doi.org/10.1038/nature13595
- Pearsall, P., Schwartz, G. E., & Russek, L. G. (2000). Changes in heart transplant recipients that parallel the personalities of their donors. Integrative medicine: integrating conventional and alternative medicine, 2(2), 65–72.https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S1096219000000135?via%3Dihub
- Pearsall, P., Schwartz, G. E., & Russek, L. G. (2000). Changes in heart transplant recipients that parallel the personalities of their donors. Integrative medicine: integrating conventional and alternative medicine, 2(2), 65–72.https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S1096219000000135?via%3Dihub
- Liester M. B. (2020). Personality changes following heart transplantation: The role of cellular memory. Medical hypotheses, 135, 109468.https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0306987719307145?via%3Dihub
- Can a Cell Remember? Surprisingly, there’s some evidence that it can. By Jennifer Frazer on May 28, 2021 Can a Cell Remember? – Scientific American
- Dossey L. Transplants, Cellular Memory, and Reincarnation. September 2008 EXPLORE The Journal of Science and Healing 4(5):285-293. DOI:10.1016/j.explore.2008.07.001.(PDF) Transplants, Cellular Memory, and Reincarnation
- Snowdon, D. A. (1997). Aging and Alzheimer’s Disease: Lessons From the Nun Study. The Gerontologist, 37(2), 150-156.https://doi.org/10.1093/geront/37.2.150
- Snowdon DA, Kemper SJ, Mortimer JA, Greiner LH, Wekstein DR, Markesbery WR. Linguistic Ability in Early Life and Cognitive Function and Alzheimer’s Disease in Late Life: Findings From the Nun Study. JAMA. 1996;275(7):528–532. doi:10.1001/jama.1996.03530310034029
- Weinstein, N., Legate, N., Ryan, W. S., & Hemmy, L. (2019). Autonomous orientation predicts longevity: New findings from the Nun Study. Journal of Personality, 87(2), 181-193.https://doi.org/10.1111/jopy.12379
- Lewin, R. (1980). Is Your Brain Really Necessary? Science.https://doi.org/7434023. https://sci-hub.st/10.1126/science.7434023
- Jay Alfred. Brain and Realities. 2006.https://www.google.com/books/edition/Brains_and_Realities/A7MAEAAAQBAJ?hl=en&gbpv=1
- Jay Alfred. Our Invisible Bodies: Scientific Evidence for Subtle Bodies Paperback – February 13, 2007.https://www.amazon.com/Our-Invisible-Bodies-Scientific-Evidence/dp/1412063264
- Forsdyke, D.R. Wittgenstein’s Certainty is Uncertain: Brain Scans of Cured Hydrocephalics Challenge Cherished Assumptions. Biol Theory 10, 336–342 (2015).https://doi.org/10.1007/s13752-015-0219-x; https://sci-hub.st/https://doi.org/10.1007/s13752-015-0219-x
- The Nobel Prize in Physiology or Medicine 1932. Sir Charles Sherrington. Biographicalhttps://www.nobelprize.org/prizes/medicine/1932/sherrington/biographical/
- J. Allan Hobson, M.D.. April 1, 2004. Neuroscience and the Soul. The Dualism of John Carew Eccles.https://dana.org/article/neuroscience-and-the-soul/
- 冯志颖, 刘建勋. 1976年唐山大地震罹难幸存者中濒死体验的研究。中华神经精神科杂志,1992,25(4):222-225.https://rs.yiigle.com/CN11214619922504/705218.htm
- Tia Ghose. January 14, 2014. Supercomputer Takes 40 Minutes To Model 1 Second of Brain Activity.https://www.livescience.com/42561-supercomputer-models-brain-activity.html?ssp=1&setlang=en-US&safesearch=moderate
- By GigaOm.com. Simulating 1 Second of Real Brain Activity Takes 40 Minutes and 83k Processors. August 7, 2013.https://cacm.acm.org/news/166691-simulating-1-second-of-real-brain-activity-takes-40-minutes-and-83k-processors/fulltext
- Pioneering digital Brain research.https://www.humanbrainproject.eu/en/about-hbp/human-brain-project-ebrains/
- Martins, N. R., Angelica, A., Chakravarthy, K., Svidinenko, Y., Boehm, F. J., Opris, I., Lebedev, M. A., Swan, M., Garan, S. A., Rosenfeld, J. V., Hogg, T., & Freitas, R. A. (2019). Human Brain/Cloud Interface. Frontiers in Neuroscience, 13, 423160.https://doi.org/10.3389/fnins.2019.00112326. Douaud, G., Lee, S., Arthofer, C., Wang, C., McCarthy, P., Lange, F., Andersson, J. L., Griffanti, L., Duff, E., Jbabdi, S., Taschler, B., Keating, P., Winkler, A. M., Collins, R., Matthews, P. M., Allen, N., Miller, K. L., Nichols, T. E., & Smith, S. M. (2022). SARS-CoV-2 is associated with changes in brain structure in UK Biobank. Nature, 604(7907), 697-707.https://doi.org/10.1038/s41586-022-04569-5327. Jones, D. (2001). Genomes and souls. Nature, 413(6853), 269.https://doi.org/10.1038/35095160
Nhóm biên soạn “Nhìn thấu Thuyết tiến hóa”
Tùy Phong biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ