Hơn cả một mối đe dọa: Trung Quốc đang thu thập DNA của người dân Hoa Kỳ
Trong những năm qua, Hoa Kỳ đã nhận ra và đồng thuận rằng, với tham vọng thống trị toàn cầu và với thái độ hoàn toàn coi thường đạo đức và nhân tính, Trung Cộng đã trở thành mối đe dọa số một với Hoa Kỳ và phần còn lại của thế giới tự do.
Thế giới từ lâu đã biết đến mối đe dọa từ gián điệp của Trung Cộng, và mỗi ngày lại biết thêm một chút về phạm vi trộm cắp thông tin sâu rộng của Trung Cộng trên nhiều lĩnh vực. Gần đây nhất, Trung Cộng bị phát hiện đang thu thập dữ liệu chăm sóc sức khoẻ của Hoa Kỳ một cách cả công khai lẫn kín đáo, đặc biệt là DNA của người dân Hoa Kỳ.
Vào tháng 05/2020, Trung tâm Phản gián và An ninh Quốc gia (NCSC) đã chính thức đưa ra cảnh báo công khai đầu tiên, “Các thế lực nước ngoài có thể thu thập, lưu trữ và khai thác thông tin sinh trắc học từ các xét nghiệm COVID.” Trong bối cảnh đại dịch và bất ổn xã hội, cảnh báo này đã không nhận được sự chú ý của giới truyền thông, cho đến khi một chương trình “60 Minutes” gần đây đã đưa vấn đề này trở lại thành một tâm điểm công khai.
Trong tập phát sóng hôm 31/01/2021, chương trình “60 Minutes” đưa tin rằng gã khổng lồ công nghệ sinh học Trung Quốc-Tập đoàn BGI-đã tiếp cận ít nhất sáu tiểu bang, trong đó có cả Washington, New York và California, để cung cấp các gói hỗ trợ xét nghiệm COVID hào phóng, bao gồm cả việc xây dựng và vận hành các phòng xét nghiệm COVID tối tân nhất, cung cấp chuyên môn kỹ thuật và thiết bị, và thậm chí cả các khoản tài trợ-tất cả đều miễn phí.
Cựu giám đốc NCSC, Bill Evanina, nói với “60 Minutes” rằng ông rất quan ngại trước các đề xướng của BGI đến nỗi ông đã ban hành cảnh báo về các xét nghiệm COVID của các công ty nước ngoài. Ông Evanina có nhiều lý do chính đáng để cảm thấy lo lắng, trong số đó là quan hệ chặt chẽ của BGI với Trung Cộng và quân đội Trung Quốc.
Tập đoàn BGI
Tập đoàn BGI do ông Uông Kiến-một nhà di truyền học người Trung Quốc và từng là thành viên nghiên cứu tại một số trường đại học Hoa Kỳ từ năm 1988 đến năm 1994-thành lập vào năm 1999 tại Bắc Kinh.
Vào thời điểm đó, công ty này có tên là Huada và hiện tại Huada vẫn đang được dùng làm tên tiếng Hoa của BGI. Trong những năm đầu thành lập, công ty Huada chỉ dựa vào nguồn tài trợ từ chính phủ và phải vật lộn để có đủ nguồn tài chính để tồn tại. Cơ hội cho công ty này đã đến khi bệnh SARS tấn công vào năm 2003. Huada là công ty đầu tiên đã giải mã bộ gen của virus SARS và tạo ra một bộ công cụ phát hiện bệnh SARS. Thành tích này đã thu hút được sự quan tâm và ủng hộ từ giới lãnh đạo cao cấp của Trung Cộng. Cuối năm đó, công ty này đã được giới chuyên môn lâu năm của Trung Cộng “thu nạp” và trở thành Học viện Viện Gen Bắc Kinh (Beijing Genomics Institute) thuộc Học viện Khoa học Trung Quốc. Đó chính là nguồn gốc của tên gọi BGI vốn được biết đến bên ngoài Trung Quốc.
Kể từ khi ra đời, tập đoàn BGI đã nuôi dưỡng một nền văn hóa công ty theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan và trung thành với Trung Cộng. Ông Uông Kiến từng nói với Founder Magazine rằng các bức tường của công ty ông ta được lấp đầy khẩu hiệu kiểu như “Trung thành phụng sự Tổ quốc,” nhằm bày tỏ sự biết ơn các nguồn tài trợ từ chính quyền địa phương.
Trong bản dự thảo đơn xin hỗ trợ 800 triệu NDT (122.2 triệu USD) từ nguồn quỹ của chính phủ, ông Uông không chỉ lấp đầy các trang giấy bằng những câu nói khoa trương sáo rỗng theo kiểu Trung Cộng như “Tôi xin được đấu tranh cho các kế hoạch thiên niên kỷ vĩ đại của nhân dân Trung Hoa,” mà còn tuyên bố rằng mục đích của dự án của ông ta là “để ngăn chặn các kẻ thù ngoại bang phát minh ra vũ khí di truyền chống lại dân tộc Trung Hoa.” Ông ta giải thích với người phỏng vấn rằng bản thân không thể thay đổi hoặc xóa tuyên bố “vũ khí di truyền” đi vì nó sẽ thu hút các nhà lãnh đạo quân sự Trung Cộng.
Tập đoàn BGI bắt đầu thu hút được sự quan tâm của quốc tế vào năm 2010, nhưng không phải nhờ vào các thành tựu khoa học. Nhờ khoản vay 90 triệu USD từ Ngân hàng Phát triển Trung Quốc thuộc sở hữu nhà nước, BGI đã mua 128 hệ thống giải trình tự gen từ công ty Illumina, nhà sản xuất thiết bị giải trình tự gen hàng đầu của Hoa Kỳ có trụ sở tại San Diego. Thương vụ này [đến nay] vẫn là đơn hàng lớn nhất về các sản phẩm giải trình tự gen của công ty Illumina.
Từ thời điểm này trở đi, sự phát triển của BGI gần giống với mô hình tăng trưởng điển hình của Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất và CNTT. Với sự trợ giúp của các máy móc và dịch vụ công nghệ của Hoa Kỳ, cộng với nhân công rẻ và sự hỗ trợ của chính phủ, BGI nhanh chóng trở thành nhà máy giải trình tự DNA của thế giới và chiếm hơn một nửa công suất giải trình tự DNA của thế giới.
Năm 2012, BGI mua lại Complete Genomics, một công ty sản xuất thiết bị và giải trình tự DNA. Nguồn tiền cho thương vụ thôn tính trị giá 117.6 triệu USD này được huy động từ các quỹ đầu tư mạo hiểm của Trung Quốc. Các quỹ đầu tư mạo hiểm này ở Trung Quốc thuộc quyền sở hữu và kiểm soát của “các Thái tử đỏ,” những người thuộc thế hệ thứ hai hoặc thứ ba của các nhà lãnh đạo hàng đầu của Trung Cộng.
Năm 2012, CEO của công ty Illumina, Jay Flatley, nói với New York Times rằng thương vụ này “sẽ cho phép chính quyền Trung Cộng tài trợ để đưa công nghệ tiến lên với tốc độ mà không công ty Hoa Kỳ nào có thể sánh kịp vì chúng tôi không có quyền tiếp cận tới các nguồn tài trợ như vậy.” Công ty Illumina đã cố gắng ngăn chặn vụ giao dịch đó bằng cách đưa ra mức giá cao hơn nhưng đã bị từ chối do lo ngại về chống độc quyền. Họ cũng đã cố gắng vận động Quốc hội để nêu ra mối quan ngại nhưng đã không nhận được nhiều phản hồi.
Trong ngành công nghiệp chăm sóc sức khỏe, Hoa Kỳ đã mất thị trường và việc làm vào tay Trung Quốc từ rất lâu trước khi đại dịch xảy ra. Chuyên gia chăm sóc sức khoẻ và tác giả Rosemary Gibson đã cảnh báo về sự độc quyền của Trung Quốc trong thị trường thuốc generic của Hoa Kỳ trong cuốn sách năm 2018 của bà là “China RX: Phơi bày nguy cơ Hoa Kỳ phụ thuộc vào dược phẩm Trung Quốc.” (China RX: Exposing the Risks of America’s Dependence on China for Medicine)
Bà Gibson đã viết: “Trong những năm 1990, Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản đã sản xuất và cung cấp 90% các thành phần chính cho thuốc và vitamin của thế giới. … Dữ liệu ngành tiết lộ rằng các công ty Trung Quốc đã thành lập một tập đoàn, thông đồng với nhau để bán sản phẩm trên thị trường toàn cầu với giá thấp hơn thị trường và khiến tất cả các nhà sản xuất Hoa Kỳ, Châu Âu và Ấn Độ phá sản.”
Kết quả là, các công ty dược phẩm Trung Quốc hiện đã chiếm được 97% thị trường thuốc kháng sinh ở Hoa Kỳ và hơn 90% thị trường vitamin C. Hoa Kỳ đã đóng cửa nhà máy penicillin cuối cùng vào năm 2004.
Nỗi đau đã được cảm nhận rõ ràng từ rất sớm trong trận đại dịch khi thế giới đang rất cần khẩu trang. Người dân Hoa Kỳ khi đó đã nhận ra rằng 95% nguồn cung cấp khẩu trang của họ được sản xuất ở nước ngoài, chủ yếu là ở Trung Quốc. Và Trung Quốc lại giữ những khẩu trang lại cho riêng mình. Sự thiếu hụt này có thể được và đã được sử dụng để chống lại Hoa Kỳ: vào tháng 03/2020, cơ quan ngôn luận của Trung Cộng, Tân Hoa Xã đã đe dọa về việc cấm xuất cảng vật tư y tế sang Hoa Kỳ nhằm trả đũa lệnh cấm đi lại và giúp công dân Hoa Kỳ ở Trung Quốc quay trở lại Hoa Kỳ của chính phủ TT Trump. Bài báo nói rằng, khi đó, Hoa Kỳ sẽ “bị nhấn chìm trong biển coronavirus.”
Trong lĩnh vực nghiên cứu gen, tình huống khẩu trang này có thể xảy ra. BGI có công nghệ, năng lực, nguồn vốn và kinh nghiệm—đang nhanh chóng mở rộng dấu ấn của mình trên toàn cầu. Theo trang web của mình, BGI hoạt động kinh doanh tại hơn 100 quốc gia và khu vực và có 11 văn phòng và phòng thí nghiệm tại Hoa Kỳ. Theo một báo cáo năm 2019 từ Ủy ban Đánh giá Kinh tế và An ninh Hoa Kỳ-Trung Quốc (USCC), BGI “đã hình thành nhiều liên hệ đối tác với các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và các tổ chức nghiên cứu của Hoa Kỳ để cung cấp dịch vụ giải trình tự gen quy mô lớn nhằm hỗ trợ các nỗ lực nghiên cứu y tế.”
Rõ ràng, BGI nhìn nhận COVID-19 là một cơ hội hoàn hảo để tăng cường tác động của nó tại Hoa Kỳ. Trong một lá thư gửi đến Thống đốc Bang Washington Jay Inslee, ông Uông đề cập đến việc BGI đã tài trợ các sản phẩm cho Đại học Washington và đề nghị tặng thêm “ngay sau khi sản phẩm của chúng tôi nhận được sự chấp thuận của cơ quan quản lý.” Điều này cho thấy BGI đang hy vọng việc này sẽ giúp họ nhận được sự chấp thuận nhanh hơn hoặc dễ dàng hơn, hoặc mang lại cho họ lợi thế cạnh tranh theo một cách nào đó.
BGI gây ra một mối đe dọa lớn hơn bởi vì họ không chỉ bán sản phẩm mà còn thu thập thông tin cá nhân và độc nhất của chúng ta: DNA. Nhiều người trong cộng đồng công nghệ sinh học và chính phủ đã bày tỏ lo ngại về việc Trung Quốc tiếp cận dữ liệu DNA của người dân Hoa Kỳ, chủ yếu vì ba lý do. Trong cuộc phỏng vấn với chương trình 60 Minutes, ông Evanina đã thảo luận về viễn cảnh rất có thể xảy ra, trong đó các công ty Trung Quốc sẽ có thể nhắm mục tiêu vi mô vào từng cá nhân người Hoa Kỳ và đưa ra các giải pháp chăm sóc sức khỏe dự phòng tùy chỉnh dựa trên DNA của họ. Ông Evanina đã đặt ra câu hỏi, “Chúng ta có muốn một quốc gia khác loại bỏ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của chúng ta một cách có hệ thống không? Chúng ta có thấy ổn với điều đó không với tư cách là một quốc gia?”
Mối lo ngại thứ hai là Trung Quốc có thể sử dụng DNA để theo dõi và tấn công từng cá nhân người Hoa Kỳ. Như báo cáo của USCC viết rằng, “Trung Quốc có thể nhắm vào những điểm yếu của các cá nhân cụ thể được phơi bày thông qua dữ liệu gen hoặc hồ sơ sức khỏe của họ. … Các cá nhân bị nhắm mục tiêu trong các cuộc tấn công như vậy có thể sẽ là những người được xác định một cách có chủ đích, chẳng hạn như các nhà ngoại giao, chính trị gia, quan chức cao cấp của liên bang hoặc lãnh đạo quân đội.” Tiến sĩ Steven Mosher, Chủ tịch Viện Nghiên cứu Dân số (PRI), tin rằng đây là một kịch bản rất có thể xảy ra.
Mối lo ngại thứ ba là Trung Quốc có thể phát triển vũ khí sinh học để nhắm vào những người không phải là người Á Châu. Ông Mosher mô tả chi tiết điều này trong bài báo của mình “Trung Quốc sẽ làm gì với DNA của quý vị.” Ông viết: “Chúng ta biết rằng bộ gen của người Á Châu khác biệt về mặt di truyền với người da trắng và người Phi Châu theo nhiều cách. … Liệu có thể chế tạo ra một phiên bản rất độc hại của, chẳng hạn như, bệnh đậu mùa, mà dễ lây truyền, gây tử vong cho các chủng tộc khác, nhưng người Trung Quốc lại được hưởng khả năng miễn dịch tự nhiên không? … Với khả năng hiện tại của chúng ta trong việc điều khiển bộ gen, nếu có thể hình dung ra một vũ khí sinh học như vậy, nó có thể trở thành hiện thực nếu được cung cấp đủ thời gian và nguồn lực.” Mặc dù về mặt kỹ thuật, điều này sẽ rất khó và cho đến nay vẫn chưa có bằng chứng nào cho thấy có thể tạo ra một loại vũ khí như vậy, nhưng hậu quả là quá thảm khốc để có thể bỏ qua.
Thu hoạch nội tạng
Nhưng có một lý do khác mà hầu hết người Hoa Kỳ thậm chí không nhận ra. Theo tôi, đây có thể là động lực mạnh mẽ và thiết thực nhất để Trung Cộng tích lũy DNA trong và ngoài Trung Quốc. Lý do này quá độc ác đến mức khó tin nhưng nó đã xảy ra hơn hai thập kỷ và vẫn đang tiếp diễn: thu hoạch cưỡng bức nội tạng.
Vào năm 1999, Trung Cộng bắt đầu xây dựng cơ sở dữ liệu DNA của mình thông qua hệ thống an ninh công cộng, khi Ủy ban Thống kê Quốc gia phê chuẩn dự án “Cơ sở dữ liệu DNA tội phạm” do Viện Pháp y & Khoa học thuộc Bộ Tư pháp Trung Quốc chủ trì. Thời điểm này trùng với thời điểm bắt đầu cuộc bức hại quy mô lớn đối với các học viên Pháp Luân Công và khởi đầu cưỡng bức mổ cướp tạng trên toàn quốc của các học viên bị bỏ tù và các tù nhân lương tâm khác.
Kể từ đó, Trung Cộng đã mở rộng quy mô cơ sở dữ liệu DNA của mình với tốc độ đáng kinh ngạc. Năm 2003, ngành cảnh sát có dưới 100,000 hồ sơ. Vào khoảng năm 2017, Trung Cộng đã phát động một chiến dịch lớn nhằm thực thi việc thu thập DNA trên toàn quốc. Vào năm 2018, quy mô của cơ sở dữ liệu này đã tăng lên 70 triệu hồ sơ. Để hiểu rõ vấn đề này, có thể so sánh với cơ sở dữ liệu DNA của FBI, CODIS. Cơ sở dữ liệu này được thiết lập trước cơ sở dữ liệu Trung Cộng khoảng một thập kỷ, và tính đến tháng 09/2020, nó chỉ có khoảng 19 triệu hồ sơ.
Ngày nay, cơ sở dữ liệu DNA quốc gia không phải là hiếm trên thế giới, và nó thường được sử dụng cho mục đích pháp lý và đạo đức. Nhưng giống như internet, viễn thông và các ngành công nghệ khác, cơ sở dữ liệu như vậy có thể được sử dụng cho các mục đích xấu dưới bàn tay Trung Cộng.
Trong Báo cáo năm 2019 của mình về Tự do Tôn giáo Quốc tế: Trung Quốc, Văn phòng Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ đã dẫn lời Tổ chức Phi chính phủ Liên minh Quốc tế để Chấm dứt Lạm dụng Cấy ghép, kết luận rằng “nạn cưỡng bức mổ cướp nội tạng đã diễn ra trong nhiều năm trên khắp Trung Quốc với quy mô đáng kể và các học viên Pháp Luân Công đã là một—và có lẽ là—nguồn cung cấp nội tạng chính.”
Theo nhiều nguồn tin, các ca cấy ghép nội tạng ở Trung Quốc bắt đầu tăng vọt vào khoảng năm 2000. Ngày nay, Trung Quốc tiến hành hơn 10,000 ca ghép tạng mỗi năm, phần lớn là các tạng quan trọng như gan và phổi. Thời gian chờ đợi trung bình cho một tạng quan trọng là từ 2 đến 4 tuần, so với khoảng 3 năm ở các nước còn lại trên thế giới.
Sự phát triển đồng thời của cơ sở dữ liệu DNA của Trung Quốc và các ca cấy ghép nội tạng không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Kể từ khi cuộc bức hại Pháp Luân Công bắt đầu vào năm 1999, hàng triệu học viên đã bị giam giữ trong các nhà tù và trại lao động. Khi bị giam giữ, các học viên Pháp Luân Công luôn bị cưỡng bức xét nghiệm máu và nội tạng, trong khi các tù nhân khác thì không.
Hơn nữa, việc thu thập DNA không chỉ giới hạn ở các nhà tù và trại lao động. Đã có nhiều báo cáo về việc cảnh sát cưỡng bức thu thập DNA tại nhà của các học viên Pháp Luân Công. Trong một báo cáo, ba cảnh sát đã đột nhập vào nhà của bà Dương Quế Trúc (Yang Guizhu), 64 tuổi, một nhân viên chính phủ đã nghỉ hưu vào tháng 10/2013 và yêu cầu lấy mẫu máu của bà Dương để xét nghiệm DNA. Khi bị bà từ chối, ba người đàn ông này đã dùng vũ lực ghì chặt bà Dương để lấy máu của bà.
Các dân tộc thiểu số như người Duy Ngô Nhĩ cũng đã đang trở thành nạn nhân của nạn cưỡng bức thu hoạch nội tạng. Trong những năm gần đây, chính quyền Trung Cộng đã phát động một số chiến dịch thu thập DNA của họ cùng với các dữ liệu sinh trắc học khác. Kể từ năm 2016, tất cả người dân Tân Cương từ 12 đến 65 tuổi buộc phải giao nộp mẫu DNA, quét võng mạc và lấy dấu vân tay hàng năm, với danh nghĩa “khám sức khỏe miễn phí,” theo Tân Hoa Xã.
Kể từ cuối năm 2019, Trung Cộng đã thu thập DNA từ những cư dân thông thường. Cảnh sát có mặt tại các trường học, làng mạc và khu dân cư để thu thập mẫu DNA và các thông tin khác, và mọi người không được lựa chọn từ chối.
Những việc làm như vậy là không thể tưởng tượng được ở các quốc gia khác. Một số quốc gia còn cấm lưu trữ vĩnh viễn hồ sơ DNA để bảo vệ quyền riêng tư và nhân quyền cho công dân của họ.
Mặc dù thế giới vẫn chưa biết mọi thứ mà Trung Cộng đã thực hiện hoặc đang lên kế hoạch thực hiện với cơ sở dữ liệu DNA khổng lồ mà họ đã xây dựng trong hai thập kỷ qua, nhưng chắc chắn rằng đối với thông tin của chúng ta thì không nên tin tưởng giao cho một chế độ độc tài với bề dày thành tích tội ác chống lại loài người.
Tính đến ngày hôm nay, không có hạn chế chính thức nào đối với việc bán các công ty công nghệ sinh học, công nghệ và thiết bị của Hoa Kỳ cho Trung Quốc, cũng như đối với việc xét nghiệm DNA của người dân Hoa Kỳ tại Trung Quốc và chuyển giao thông tin bộ gen của người dân Hoa Kỳ cho quốc gia này. Đã đến lúc chính phủ Hoa Kỳ và các nhà lập pháp phải xem xét kỹ vấn đề này trước khi xảy ra nhiều thiệt hại trầm trọng hơn.
Quan điểm trình bày trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.
Do Pingping Yu thực hiện
Thu Anh biên dịch
Xem thêm: