Dân số học: Thảm họa kinh tế của Trung Quốc
Kể từ khi Bắc Kinh công bố vài tháng trước rằng dân số Trung Quốc đang giảm dần, dư luận đã suy đoán về việc xu hướng đó sẽ cản trở triển vọng kinh tế của quốc gia này như thế nào. Mối lo ngại này là có cơ sở. Dân số học của Trung Quốc sẽ cản trở nền kinh tế từng một thời bùng nổ này.
Tuy nhiên, điều còn thiếu trong phần lớn những suy đoán này là lời giải thích về xu hướng dân số học sẽ gây thiệt hại kinh tế như thế nào. Tại đây tôi sẽ cung cấp góc nhìn tóm lược cần thiết.
Nỗi đau về dân số học của Trung Quốc bắt nguồn từ một quyết định được đưa ra vào cuối những năm 1970 của lãnh đạo Trung Quốc đương thời — ông Đặng Tiểu Bình. Ngay khi nền kinh tế đang mở cửa với thế giới, ông đã quyết định giải khai cho càng nhiều người dân càng tốt để làm việc, bằng cách ban hành chính sách chỉ cho phép mỗi gia đình có một con.
“Chính sách một con” này đã phát huy tác dụng ở một mức độ nào đó. Vào những năm 1980, tỷ lệ sinh ở Trung Quốc đã giảm từ mức trung bình cao là 6 đến 7 ca sinh trong đời mỗi phụ nữ xuống còn dưới 3. Đến những năm 1990, mức trung bình đó đã giảm xuống dưới 2, con số cần thiết để giữ cho dân số không bị suy giảm. Tỷ lệ sinh đã ở mức thấp kể từ đó.
Ban đầu, xu hướng này đã cho phép nhiều người hơn có thể làm việc bên ngoài nhà mình. Những người này điều hành các nhà máy của Trung Quốc và tạo ra thặng dư kinh tế đủ để tăng xuất cảng và có khả năng trợ giúp các dự án cơ sở hạ tầng đồ sộ mà Trung Quốc nhanh chóng vì thế mà trở nên nổi tiếng. Nền kinh tế thực đã bùng nổ, tăng trưởng hơn 10% một năm trong nhiều thập niên.
Tuy nhiên, mặc dù “chính sách một con” có hiệu quả vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, nhưng ngày nay chính sách này đã gây rắc rối ở Trung Quốc và sẽ tiếp tục như vậy. Tỷ lệ sinh thấp trong khoảng 35 năm qua đã làm chậm lại hoàn toàn dòng nhân công trẻ tuổi để thay thế thế hệ người đi làm hiện đang về hưu. Tình trạng thiếu nhân công có sẵn đã kìm hãm tốc độ tăng trưởng chung và tình trạng này sẽ tiếp tục kéo dài. Bắc Kinh tính toán rằng hiện tại, Trung Quốc mới chỉ có được một nửa số nhân viên nhà máy cần thiết.
Điều thậm chí còn đáng lo ngại hơn từ quan điểm kinh tế là nguồn nhân lực hạn chế này sẽ ngày càng phải hậu thuẫn cho số lượng người về hưu ngày càng tăng. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Trung Quốc có 6.5 người trong độ tuổi lao động trên mỗi người trong độ tuổi về hưu vào năm 2000. Đến năm 2010, con số đó giảm xuống còn 5.4 và đến năm 2020 còn 3.6. Đến năm 2040, tỷ lệ này được dự đoán sẽ giảm xuống còn 1.7.
Lượng người đi làm hạn chế này sẽ phải tự nuôi sống bản thân, những người phụ thuộc trực hệ của họ, và trang trải cho một phần lớn nhu cầu mà mỗi người về hưu cần. Dù những người về hưu này có đủ nguồn lương hưu hay là nhận trợ cấp của chính quyền; thì về mặt kinh tế hai việc này có tác dụng như nhau. Những người đi làm, ngoài các nhu cầu khác, sẽ phải đáp ứng nhu cầu về lương thực, quần áo, chỗ ở, dịch vụ y tế, v.v. của người về hưu. Dưới áp lực như vậy, khó có thể thấy Trung Quốc cũng sản xuất đủ thặng dư kinh tế để hậu thuẫn cho cỗ máy xuất cảng to lớn của mình hoặc các dự án đầu tư cần thiết cho tăng trưởng kinh tế nhanh chóng.
Tất nhiên là có những biện pháp giảm nhẹ. Năng suất tăng lên — có lẽ nhờ ứng dụng trí tuệ nhân tạo — sẽ thay thế các nhiệm vụ thực hiện do con người ngày nay. Điều đó cũng sẽ cho phép những người đi làm của tương lai sản xuất nhiều hơn người đi làm trong quá khứ. Tuy nhiên, nguồn đổi mới này chỉ có thể cung cấp cứu trợ đến một chừng mực nào đó thôi. Ngay cả vấn đề thất nghiệp nghiêm trọng ở giới trẻ hiện nay cũng không thể giúp được gì nhiều.
Hầu hết những người thất nghiệp ngày nay đều có trình độ đại học và ít có khuynh hướng lao động chân tay, vốn là lĩnh vực đang có nhu cầu. Thay vì là một nguồn giải quyết vấn đề, thì họ phản ánh một nỗ lực bị lãng phí mà thực ra lại làm giảm đi nguồn nhân công hiện có. Nhập cư có thể hữu ích, ít nhất là về mặt lý thuyết, nhưng rất ít người muốn vào Trung Quốc. Quả đúng như thế, [thay vì nhập cư, thì] đất nước này đang có lượng di cư ròng.
Bắc Kinh đã thừa nhận lỗi lầm trong quá khứ và hiện đang khuyến khích các gia đình sinh thêm con. Ngay cả khi người dân tận dụng được sự tự do mới từ phía Bắc Kinh, thì cũng phải mất 15–20 năm để những ca sinh này có tác động được đến nguồn nhân lực của nền kinh tế. Như vậy, tỷ lệ sinh dường như đã giảm kể từ khi “chính sách hai con” được ban hành.
Dân số học chỉ là một trong những thách thức kinh tế của Trung Quốc. Tuy nhiên, đây là một vấn đề quan trọng và thực sự mang tính căn bản theo mọi nghĩa của từ này (từ ‘căn bản’). Hơn nữa, vấn đề này không phải là vấn đề mà Trung Quốc có thể hy vọng giải quyết nhanh chóng — chắc chắn là không đủ nhanh để Bắc Kinh đạt được các mục tiêu tăng trưởng dài hạn, chưa kể đến tham vọng bá chủ kinh tế và ngoại giao của lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình.
Nhật Thăng biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times