‘Tiếu đàm phong vân’ – Tập 8: Ngô-Việt tranh bá (Phần 2)
Khổng Tử chu du liệt quốc
Lời bạch: Tử Cống là người có tài năng và kỹ xảo đàm phán thuyết phục cao siêu, đã được nổi danh trong giới quyền quý của liệt quốc. Trong “Sử ký về Kinh doanh và Khai thác mỏ”, Tư Mã Thiên đã viết như thế này: “Trong 72 môn đồ của Khổng Tử, Tứ là giàu có nhất. Nơi nào ông đến, vua các nước đều đón tiếp long trọng”. Chính là nói trong các môn đồ của Khổng Tử, Tử Cống giàu có nhất, mỗi khi ông đến một quốc gia nào đó, Quốc quân của những quốc gia đó đối với ông đều rất kính trọng. Ông lại là học trò của Khổng Tử, như vậy càng khiến Khổng Tử được tôn trọng hơn. Nhưng cũng có người vì thấy sự giàu có và tài hùng biện của Tử Cống, liền cho rằng Tử Cống cao minh hơn Khổng Tử. Một Đại phu nước Lỗ đã công khai nói giữa triều đình “Tử Cống giỏi hơn Khổng Tử”.
Tử Cống sau khi nghe những lời đánh giá trên liền nói, “Lấy ví dụ như tường cung, tường của Tứ chỉ cao bằng vai, nhìn thấy mọi thứ tốt trong nhà. Tường của Khổng Phu Tử cao mấy trượng, không thấy được cổng mà vào, không thấy được hết cái đẹp trong tông miếu, cái giàu có ở trăm quan. Người thấy được cửa quả là rất hiếm, tài của Phu Tử, chẳng phải cũng vậy hay sao? Ý tứ là nói, chút kiến thức học vấn của bản thân giống như phòng ốc có bức tường thấp, ai cũng có thể nhìn thấy được. Kiến thức học vấn của Khổng Tử, giống như cảnh quan tông miếu có tường cao mấy trượng, không thấy được cổng vào, huống hồ người có thể tìm được cổng của nó cũng rất ít, chính vì lẽ đó, các vị mới có cách nhìn không chính xác như vậy. Vậy thì Khổng Tử là con người như thế nào?
Khổng Tử là một thánh nhân, cũng là người sáng lập học thuyết Nho gia. Rất nhiều người coi Khổng Tử là một nhà giáo dục vĩ đại. Trong tự thuật cuộc đời mình, Khổng Tử có nói: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục bất du củ”, (tạm dịch: “Ta 15 tuổi chí ở học hành, 30 tuổi có thể tự lập, 40 tuổi có thể hiểu thấu sự-lý trong thiên hạ, 50 tuổi biết được mệnh Trời, 60 tuổi ta hiểu thấu ngay mọi lẽ, 70 tuổi tâm theo ý mình, có thể làm một cách tùy ý nhưng lại không vượt quá quy tắc”). Học thuyết của Khổng Tử rất rộng lớn, rất nhiều người cho rằng học thuyết của Khổng Tử, hạch tâm nằm ở lễ và nhạc. Đương nhiên Khổng Tử rất coi trọng lễ nhạc, nhưng kỳ thực hạch tâm của học thuyết Khổng Tử nằm ở “nhân”. Khổng Tử có giảng một câu: ‘Người mà bất nhân, lễ để làm gì? Người mà bất nhân, nhạc để làm gì?” Nghĩa là một người không có lòng nhân, thì muốn lễ và nhạc có tác dụng gì? Vì vấn đề thời gian, nên chúng ta hôm nay sẽ giới thiệu giản đơn về ba khái niệm của Nho gia, “Nhân”, “Nghĩa” và “Tri thiên mệnh”.
Không Tử đã xếp “Nhân” vào vị trí đầu tiên. “Nhân” nếu giảng một cách thông thường thì là “ái nhân”, đương nhiên cái “ái” này hoàn toàn không phải là tình cảm yêu mến trong quan hệ giữa người với người mà chúng ta lý giải hiện nay, cũng không phải là lấy mối quan hệ thân duyên trong gia đình để quyết định “ái” một người hoặc không “ái” một người. “Ái nhân” của Khổng Tử có thể nói là bác ái. Loại “ái” này bao gồm hai phương diện, một phương diện gọi là “thôi kỷ cập nhân”, nghĩa là cái gì mà tôi cảm thấy tốt, vậy thì tôi cũng hy vọng người khác cũng được giống như vậy. Ví như có người mong muốn được danh dự, có người hy vọng được học vấn. Khổng Tử nói, “Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân” (“Những gì mình muốn lập thì cũng nên lập cho người khác, những gì mình muốn đạt thì cũng nên cho người khác đạt được”), đạo lý này trong Nho giáo gọi là “Trung”. Vậy thì mặt trái của “Thôi kỷ cập nhân” (“Suy bụng ta ra bụng người”), chính là “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (“Cái mà mình không muốn, thì cũng đừng làm cho người khác”), Đạo lý này Nho giáo gọi là “Thứ”, cho nên Khổng Tử là giảng “Nhân”, nhưng cũng có người nói đạo của Khổng Tử chính là “Trung và Thứ”.
Đương nhiên “ái” mà Khổng Tử giảng hoàn toàn không phải là vô nguyên tắc, mà có một sự phán đoán của đạo đức ở phía sau, cũng không phải là yêu tất cả mọi người. Ví như Khổng Tử đã từng giảng “Duy nhân giả năng hảo nhân, năng ác nhân”, chính là nói một người có lòng nhân từ, người đó sẽ thật lòng yêu thích một người, cũng sẽ thật lòng ghét một người. Đương nhiên ghét một người, trên thực tế chỉ là ghét những hành vi không thích đáng của người đó, hoặc là những đạo đức bất lương. Để làm được đến mức đó có yêu cầu nguyên tắc nhất định, cũng là cần phải có dũng khí. Vì khi bạn thật sự muốn ghét một người, cũng có nghĩa là sẽ đắc tội với người ta. Nhưng Khổng Tử rất ghét loại người tốt một cách vô nguyên tắc, ông gọi những người đó là “hương nguyện” (“Kẻ giả dạng thật thà chất phác để lừa bịp”). Khổng Tử nói “hương nguyện chính là “đức chi tặc”, chính bọn họ là những người làm băng hoại đạo đức. Bọn họ dường như làm một người tốt, ai cũng không đắc tội, gặp kẻ xấu cũng không dám làm gì, bọn họ nhân nhượng và dung túng, mới có đất cho kẻ xấu hành ác.
Tử Cống đã hỏi Khổng Tử, người trong thôn đều yêu thích một người, người đó là người tốt phải không? Khổng Tử nói chưa chắc. Tử Cống lại hỏi người trong thôn đều ghét người đó, như vậy người như thế lẽ nào là người tốt sao? Khổng Tử nói chưa chắc. Tử Cống nói vậy người như thế nào thì được cho là người tốt, Khổng Tử nói người tốt trong thôn đều thích anh ta, người xấu trong thôn đều hận anh ta, người như vậy mới là người tốt.
Đạo lý của “Nhân” bao gồm “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”, “Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”.
Phía dưới của “Nhân” là “Nghĩa”. Cái gì gọi là nghĩa? Chữ “nghĩa” trong tự điển giải thích chính là “nên”, ý là một sự việc cần phải đi làm. Vậy thì một sự việc rốt cuộc là nên làm hay không nên làm, dựa vào cái gì để quyết định? Quân tử và tiểu nhân về mặt này có chỗ phân biệt, gọi là “Quân tử dụ vu nghĩa, tiểu nhân dụ vu lợi”. Quân tử dùng đạo đức để quyết định việc này nên hay không nên làm, tiểu nhân sẽ nhìn vào lợi ích để phán đoán việc này nên làm hay không nên làm, đây cũng là chỗ để phân biệt giữa quân tử và tiểu nhân.
“Nghĩa” trong Nho gia chỉ ra rằng nếu như một việc xét về đạo đức là nên làm, thì sẽ dốc hết toàn lực để làm việc đó, nói một cách giản đơn là “vì làm việc đó mà làm”. Nếu một người làm hết sức mình mà vẫn không hoàn thành được sự việc ấy, Khổng Tử quy tình huống như vậy về “Thiên mệnh”, cũng gọi là ý chỉ của Trời.
Một đời của Khổng Tử là thực hành tư tưởng đối với “Nhân”, “Nghĩa”, “Tri thiên mệnh”. Ông sống trong một thời kỳ xã hội có biến động lớn, chính trị bất ổn, tư tưởng lễ-nhạc đã sụp đổ và bại hoại (lễ băng nhạc hoại). Khổng Tử chu du liệt quốc, giống như Sokrates gặp người để đàm đạo. Ông hy vọng quân thần phụ tử đều có thể sống một cuộc sống có đạo đức, nhưng trái lại không có một ai tiếp thu giáo lý của ông. Mặc dù ông gặp rất nhiều trở ngại, chịu rất nhiều khổ cực, nhưng Khổng Tử vẫn không hối hận, vì ông làm những sự việc này đều xuất phát từ “Nghĩa”, là một cách suy nghĩ trên đạo đức, là “vì cứ làm mà làm”, còn như nói đến kết quả, trong “Luận ngữ” có một câu nói “Quân tử chi sĩ dã, hành kỳ nghĩa dã. Đạo chi bất hành, dĩ tri chi hỹ” (“Quân tử ra làm quan, để thi hành điều nghĩa. Đạo không thi hành được, đã biết vậy rồi”), ý nghĩa chính là quân tử muốn xuất sĩ làm quan, là vì để thực hành được lý tưởng của mình, nếu lý tưởng đó không thể thực hiện được, ta vốn đã biết trước rồi.
Khổng Tử đã ôm giữ tâm thái như vậy, ông biết ông sẽ không thành công, nhưng vẫn dốc hết công sức đi làm. Quan niệm “Thiên mệnh” được giảng ở đây, chính là chỉ ý Trời, hoặc nói là quy luật của vũ trụ, hoặc nói là sự an bài của Thần, sự việc đó vượt ra ngoài sự khống chế của Khổng Tử.
Rất nhiều người cho rằng tin tưởng vào số mệnh sẽ khiến người ta tiêu cực. Từ giải thích của Khổng Tử đối với “Nghĩa” và “Thiên mệnh”, chúng ta sẽ thấy, tin vào số mệnh không chỉ không khiến người ta tiêu cực, ngược lại sẽ khiến người ta thông suốt. Bởi vì trong con mắt của Khổng Tử, không tồn tại cách nói “làm thành công” và “làm không thành công”, chỉ cần mình gắng hết sức thực hiện, thì sẽ không có gì phải hối hận. Người như vậy, trong lòng họ không bao giờ buồn rầu, bởi vì họ không bận tâm về kết quả. Khổng Tử lại nói “Quân tử thản đãng đãng” (“Quân tử trong lòng thản đãng”). Người không vì kết quả mà cảm thấy buồn lòng, cho nên Khổng Tử lại nói “Nhân giả bất ưu” (“Người nhân nghĩa không lo buồn”).
Khổng Tử cho rằng người hiểu được “Nghĩa” và “Thiên mệnh” mới là người quân tử chân chính, bởi vì họ làm việc vì đạo nghĩa không hề bận tâm đến kết quả. Khổng Tử giảng “Quân tử dụ vu nghĩa, tiểu nhân dụ vụ lợi” có nghĩa là “Quân tử trọng về nghĩa, tiểu nhân trọng về lợi”, lại nói “Bất tri mệnh, vô dĩ vi quân tử” nghĩa là “Không biết thiên mệnh, không thể coi là quân tử”).
Khổng Tử mãi đến năm 50 tuổi mới hiểu đạo lý của thiên mệnh. Vừa nãy tôi nói, khi Khổng Tử nói về cuộc đời của mình, ông nói “Ngô ngũ thập nhi tri thiên mệnh”, mà tại lúc đó, Khổng Tử mới bắt đầu một sở thích mới, chính là khám phá “Kinh dịch”. Chúng ta đã biết “Kinh dịch” chính là cuốn sách nói về quy luật vận hành của vũ trụ và những biến hóa của người, vật. Khổng Tử vào những năm cuối đời rất thích đọc Kinh dịch, “Vi biên tam tuyệt” chính là ngày xưa đều dùng sách bằng thẻ tre, sau đó dùng da trâu xâu lại, Khổng Tử giở “Kinh dịch” khiến cho dây da trâu xuyên quyển sách bị đứt ba lần.
Khổng Tử từng đến học tập Lão Tử, ông hết sức kính trọng Lão Tử. Về quan hệ giữa Nho gia và Đạo gia, sắp tới chúng ta nếu như có cơ hội sẽ thảo luận sâu thêm về vấn đề này.
Cuộc đời Khổng Tử rất lận đận, hồi nhỏ gia đình ông rất nghèo. Khổng Tử nói “Ngô tiểu dã tiện, cố đa năng bỉ sự”, nghĩa là ta khi còn nhỏ, trong nhà rất nghèo. Ông đã làm chức nhỏ là giữ kho, cũng từng quản lý việc chăn trâu dê.
Thân phận của Khổng Tử là “Sĩ”. Mọi người biết rằng vào thời Xuân Thu chiến quốc, địa vị xã hội cao nhất là Chu thiên tử. Dưới Chu thiên tử là Chư hầu, dưới Chư hầu là Đại phu, dưới Đại phu là Sĩ. Bốn giai tầng này thuộc giai tầng quý tộc. Vào thời đại của Khổng Tử, chỉ có quý tộc mới được tiếp nhận giáo dục, có nghĩa là Khổng Tử là một nhân sĩ, nên ông có quyền lợi được giáo dục. Thấp hơn sĩ một cấp chính là thứ dân, họ không có quyền lợi được giáo dục.
Khổng Tử đã đưa ra một đạo lý rất nổi tiếng, gọi là “Hữu giáo vô loại”, chính là ta không quản các vị có xuất thân là quý tộc hay bình dân, chỉ cần các vị đóng học phí, Khổng Tử sẽ dạy các vị. Khổng Tử đã tiến hành việc truyền học thuật xuống tầng lớp thấp, phá vỡ truyền thống ‘học ở quan phủ’ trước kia. Việc học trước kia là do quan phủ độc quyền, còn Khổng Tử phổ cập học thuật, hay nói cách khác là phổ cập việc thảo luận học vấn đến toàn xã hội. Chính vì điều này nên rất nhiều người cho rằng Khổng Tử là nhà giáo dục bình dân đầu tiên của Trung Quốc, cách nhìn nhận như vậy cũng rất có đạo lý.
(Còn tiếp)
Bi Hui
Sương Sương biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ
Xem thêm: