‘Tiếu đàm phong vân’: Tập 5 – Binh gia Tôn Vũ (Phần 2)
Mỹ Cơ diễn trận, Ngũ Tử Tư chờ đợi nước Sở bị cô lập
Lời bạch: Tôn Vũ để lại cho hậu thế binh pháp Tôn Tử, ông được gọi là “ông tổ về binh pháp”. Là người chuyên về quân sự, ông đối với chiến tranh có thái độ rất cẩn trọng, chủ trương nhanh chóng kết thúc chiến tranh và giảm thiểu giết chóc, lấy “dùng binh theo cách không đánh mà khuất phục được người ta” là cảnh giới tối cao của chiến tranh. Ông đã đề xuất một bộ hệ thống lý luận chiến tranh, nhưng lại nói hình thế trên chiến trường thiên biến vạn hóa, tất phải căn cứ vào đó để điều chỉnh bố trí, “người vì kẻ địch biến hóa mà chiến thắng” mới là dụng binh như Thần.
Mặc dù “Binh pháp Tôn Tử” có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế, nhưng trong “Sử ký – Tôn Tử Ngô Khởi liệt truyện”, ghi chép về Tôn Vũ lại không chi tiết lắm. Chủ yếu ghi chép một câu chuyện rất nổi tiếng, được gọi “Mỹ Cơ diễn trận”.
Ngô Vương Hạp Lư trước khi gặp Tôn Vũ, đã đọc qua 13 chương binh pháp của Tôn Tử. Hạp Lư nói với Tôn Tử, ta xem trong binh pháp thấy khanh là một tài năng hiếm có, nhưng quốc gia chúng ta nhỏ như vậy, nhân khẩu lại ít như thế, phải làm thế nào?
Tôn Vũ thưa, dùng binh pháp của thần, không chỉ có nam nhân khi ra trận vô cùng dũng cảm, cho dù là nữ nhân, thần cũng có thể khiến cô ta trở thành một dũng sĩ.
Hạp Lư ha ha cười lớn, nghĩ làm sao mà nữ nhân có thể giao đấu?
Tôn Vũ nói, thần xin được thử một lần.
Hạp Lư liền đem 300 cung nữ giao cho Tôn Vũ, cho hai mỹ nhân mà ông yêu quý nhất làm đội trưởng, để cho Tôn Vũ huấn luyện.
Hôm đó các mỹ nhân đều mặc y phục của binh sĩ, khoác thêm áo giáp, đầu đội mũ trụ (mũ trụ là mũ giáp). Tôn Vũ bắt đầu giảng giải về kỷ luật quân đội và những việc cần làm phía sau. Ông nói, trước tiên những cung nữ này đều phải ngồi không chạm đất, tiếng trống đầu tiên vang lên thì tất cả phải đứng lên, tiếng trống thứ hai thì đội phải quay sang trái, đội trái quay sang phải, khi tiếng trống thứ ba vang lên, phải làm như đang giao chiến. Sau đó hỏi các cung nữ đã hiểu rõ chưa, mọi người đều nói hiểu rồi.
Tôn Vũ bắt đầu cho đánh trống, sau khi tiếng trống thứ nhất vang lên, những người cung nữ này, có người đứng, có người ngồi, đủ mọi tư thế. Tôn Vũ liền nói, lần thứ nhất nếu như mọi người chưa nghe quân lệnh, thì thuộc về “xuất lệnh chưa minh bạch”, chính là chủ tướng chưa nói rõ mệnh lệnh cho các vị, bây giờ ta nhắc lại một lần nữa, tiếng trống thứ nhất như thế này, tiếng trống thứ hai như thế này, tiếng trống thứ ba như thế này, sau đó cho đánh trống.
Tiếng trống thứ nhất vang lên, các cung nữ đều đứng dậy, khi có tiếng trống thứ hai, những người cung nữ này thấy rất thú vị, mọi người cười nghiêng cười ngả, có người ngồi dưới đất, có người bò trên thân người khác, sau đó cười đến mức trời nghiêng đất ngả.
Tôn Vũ giận quá, râu tóc đều dựng lên, đẩy người gõ trống sang một bên, tự mình cầm dùi đánh trống, nhưng các cung nữ vẫn cười hì hì như cũ.
Tôn Vũ quát lên một tiếng: “Người chấp pháp trong quân đâu?” Người chấp pháp liền chạy đến trước mặt Tôn Vũ quỳ xuống. Tôn Vũ hỏi, nếu như không tuân quân mệnh, nên xử lý như thế nào? Người chấp pháp nói, đáng chém! Tôn Vũ nói, 300 cung nữ không thể giết hết, đem hai đội trưởng dẫn đầu giết. Binh sĩ lập tức liền chạy đến trói hai đội trưởng lại.
Khi đó Ngô Vương Hạp Lư ngồi trên đài, từ xa nhìn Tôn Vũ huấn luyện những cung nữ của mình, vừa nhìn thấy hai đội trưởng bị trói lại, lập tức phái Bá Bỉ cầm phù tiết của quân vương, phi ngựa đến trước mặt Tôn Vũ, truyền đạt mệnh lệnh của Ngô Vương cho Tôn Vũ.
Hạp Lư nói, đây là hai mỹ nhân mà ta yêu quý nhất, không có họ ta ăn không ngon, ngủ không yên, hy vọng tướng quân có thể tha cho họ.
Tôn Vũ đáp, ta hiện nay thân là tướng cầm quân tại ngoại, “Tướng tại ngoại, lệnh của vua cũng có lúc không nghe”, tất phải nghiêm túc quân lệnh, chém.
Hai mỹ nhân này đã bị trảm như vậy, Tôn Vũ lại chọn hai người khác làm đội trưởng, sau đó một lần nữa ra lệnh. Tiếng trống lần thứ nhất làm thế nào, tiếng trống thứ hai làm thế nào, tiếng trống thứ ba làm thế nào. Khi tiếng trống dứt, các cung nữ này đã bị sợ tới mức mất hết cả thần sắc, bọn họ đều răm rắp làm theo sự chỉ huy của Tôn Vũ, hơn nữa họ tiến lui đều rất chuẩn mực, đi đứng đều trong giới hạn quy định của Tôn Vũ, không dám sai một bước nào.
Tôn Vũ tiến đến trước mặt Hạp Lư nói, binh sĩ đã huấn luyện xong rồi. Lúc này, có bảo họ nhảy vào chỗ nước sôi lửa bỏng họ cũng không dám chối từ. Hạp Lư nói “Tướng quân nghỉ ngơi đi”, khanh xuống dưới nghỉ một lát đi. Bởi vì bị trảm mất hai mỹ nhân rồi, nên Hạp Lư có chút hậm hực.
Khi đó Ngũ Tử Tư liền nói với Ngô Vương, quốc gia chúng ta nhỏ như vậy, nếu như quân đội không có kỷ luật nghiêm minh, không thể đạt đến mức có lệnh là thực hiện, nói cấm là phải dừng, không thể đạt đến mức như lấy thân chỉ huy cánh tay, cánh tay chỉ huy cẳng tay, như cẳng tay chỉ huy bàn tay thì quân của chúng ta không có sức chiến đấu. Chúng ta không nói đánh nước Sở, mà bất kể cuộc chiến nào chúng ta cũng không thể thắng. Hạp Lư cũng hiểu ra đạo lý ấy, thế là đem toàn bộ quân binh giao cho Tôn Vũ.
Hạp Lư hỏi Tôn Vũ, nếu như hiện nay đánh Sở thì nên đánh nơi nào? Tôn Vũ kiến nghị đánh Thư Thành trước, đây là một thành trì của nước Sở. Vì sao? Vì hai người em của Vương Liêu là Cái Dư và Chúc Dung, sau khi Vương Liêu bị ám sát, đã chạy đến Thư Thành của nước Sở. Do vậy Tôn Vũ lần đầu tiên dùng binh, là đánh hạ Thư Thành trước, vậy là Cái Dư và Chúc Dung bị giết.
Ngô Vương Hạp Lư ra lệnh cho Tôn Vũ tiếp tục tiến binh, Tôn Vũ nói dân chúng nước Ngô đã rất mệt mỏi rồi, “nên nghỉ ngơi” không thể giao tranh lúc này.
Tôn Vũ đánh trận, chúng ta nhìn thấy ông ta trăm trận trăm thắng, mỗi trận chiến đều nhất định thắng. Vì sao? Bởi vì ông trước khi ra trận đều đã tính toán kỹ rồi, trận đánh mà không thắng ông sẽ không đánh, cho nên nói mỗi khi ông đánh, nhất định là cầm chắc phần thắng. Tôn Vũ biết bây giờ tiếp tục đánh sẽ thất bại, cho nên Tôn Vũ sau khi giành được chiến thắng có tính cục bộ, liền lập tức rút binh.
Năm thứ hai, là năm 511 TCN, Ngô Vương Hạp Lư mất một thanh bảo kiếm, sau lại phát hiện thanh bảo kiếm này bị Sở Chiêu Vương chiếm giữ, cho nên Hạp Lư rất tức giận. Nước Ngô tấn công nước Sở lần thứ hai, đồng thời ông ta trưng dụng quân của nước Việt, yêu cầu Việt Vương (khi đó là Việt Tử) Doãn Thường phái quân cùng ông ta đánh Sở.
Khi đó nước Việt và nước Sở quan hệ tương đối tốt, cho nên Doãn Thường không phái quân đi. Lần chiến tranh này, nước Ngô đánh hạ được hai thành trì của nước Sở, một thành trì là Tiềm, một thành trì là Lục. Sau khi đánh hạ hai thành trì xong, nước Ngô lại rút quân về nước.
Ngô Vương Hạp Lư sau khi thu quân về, ông ta rất không vừa ý đối với quốc vương của nước Việt, bởi vì ông muốn trưng binh của nước Việt nhưng nước Việt không chịu xuất binh, ông ta liền chuẩn bị dấy binh phạt Việt. Tôn Vũ thấy vậy ngăn cản nói, trận này không thể chiến.
Tôn Vũ không có khuyên Ngô Vương Hạp Lư theo kiểu nói, ông đánh sẽ không thắng. Tôn Vũ không có bất kỳ so sánh và phân tích nào về thực lực chiến tranh, ông nói Ngô Vương Hạp Lư về một đạo lý như này, “phương vị Tuế tinh tại Việt, chiến không có lợi”.
Cái gì gọi là Tuế tinh? Tuế tinh chính là Mộc tinh. Sao Mộc chuyển động quanh mặt trời một vòng là 12 năm, thực tế là 11 năm 10 tháng, sắp được 12 năm. Người xưa đem Hoàng đạo phân thành cung, cho nên sao Mộc xoay chuyển quanh Mặt Trời, mỗi năm nó ở một trong 12 cung Hoàng đạo. Chúng ta biết rằng, Trung Hoa cổ đại có quan niệm thiên nhân hợp nhất, sự vận động của thiên thể cùng với con người trên Trái Đất luôn có quan hệ đối ứng.
Trong “Sử ký” có riêng một quyển sách gọi là “Thiên cung Thư” bao gồm 130 chương, trong đó có 8 chương gọi là “Thư”, trong “Thư” có 1 chương gọi là “Thiên cung Thư”, giảng ra thì chính là quan hệ đối ứng giữa biến hóa của các tinh thể trên trời và sự việc của con người trên trái đất. Nếu như nói Tuế tinh ở trên một cung nào đó, cung đó trên Trái Đất sẽ ứng với một khu vực nào đó. Nếu như anh dùng binh ở khu vực đó, dựa theo cách giảng của “Thiên cung Thư” là phạm Thái Tuế, cho nên ở đây sẽ nhất định xuất hiện vấn đề. Kết quả Hạp Lư không nghe, liền đem quân đi trừng phạt nước Việt, trận này chiến thắng, mang được rất nhiều tài vật về.
Đương nhiên Hạp Lư rất vui, nhưng Tôn Vũ nói nhỏ với Ngũ Tử Tư, trận đánh này phạm vào Thái Tuế, không quá 40 năm ‘Việt cường Ngô tận’, ý tứ chính là không cần đến 40 năm, nước Việt sẽ trở nên hùng mạnh, nước Ngô có nguy cơ diệt vong.
Khi đó Ngũ Tử Tư vẫn còn chưa cho là thật, nhưng âm thầm ghi chép lại. Tôi cũng không biết có phải là do nguyên nhân đó hay không, Ngũ Tử Tư luôn nói với Ngô Vương rằng nước Việt là mối họa sau này, mối họa sau này. Ông chỉ lo lắng nước Việt tiêu diệt nước Ngô, cũng có khả năng là từ khi cuộc chiến tranh đó bắt đầu.
Vào năm 509 TCN, Nước Sở tiến đánh nước Ngô, nhưng nước Sở bại trận. Hạp Lư nói với Tôn Vũ, nếu như không thể đánh vào Dĩnh Đô (đô thành của nước Sở) thì chưa thể coi là toàn thắng. Ngũ Tử Tư trả lời, trong lòng tôi thời thời khắc khắc đều muốn đánh vào Dĩnh Đô, nhưng chúng ta bây giờ vẫn chưa đến lúc đánh vào Dĩnh Đô được.
Ngô Vương hỏi khi nào mới là thời cơ thích hợp? Ngũ tử Tư thưa, hiện nay lệnh doãn của nước Sở, chính là tể tướng Nang Ngõa, là một người vô cùng tham lam. Chính vì tham lam, ông ta nhất định sẽ đắc tội với tất cả các nước phụ thuộc vào nước Sở, đó chính là thời điểm chúng ta tấn công nước Sở. Bởi vì nước Sở có rất nhiều nước nhỏ, như nước Đường, nước Thái, nước Tùy, rất nhiều nước rất nhỏ như nước Đốn, nước Hứa đều coi nước Sở là mẫu quốc, đều triều cống cho nó.
Ngũ Tử Tư nói bao giờ các nước nhỏ đều rời xa, không đứng về phía nước Sở nữa. Nước Sở bị cô lập mới là thời cơ để chúng ta đánh Sở, chúng ta nhất định phải đợi thời khắc ấy đến. Thế là lại đợi, thời gian đợi là ba năm.
Lời bạch: Tôn Vũ khi phò Ngô Vương trước sau đã giúp nước Ngô đánh bại được hai trận chiến điển hình, công chiếm được Thư Thành của nước Sở, lại đánh chiếm được Tiềm Thành và Lục Thành. Vào năm 509 TCN lệnh doãn nước Sở là Nang Ngõa tấn công nước Ngô, bị Tôn Vũ đánh bại. Tôn Vũ và Ngũ Tử Tư nói với Ngô Vương, lệnh doãn nước Sở là một người tham lam, ông ta nhất định sẽ làm cho những nước phụ thuộc nước Sở phản bội nước Sở. Khi nước Sở bị các nước nhỏ quay lưng, nước Ngô xuất binh nhất định sẽ tiêu diệt được nước Sở. Lần đợi này là thời gian ba năm.
Năm 509 TCN, Vua của hai nước phụ thuộc nước Sở là Đường Hầu và Thái Hầu đến nước Sở triều cống. Đường Hầu có một con ngựa quý gọi là ngựa “Túc Sương”, chạy rất nhanh, hơn nữa toàn thân một màu tuyết trắng, không có một cọng lông tạp. Cảm giác đó cũng giống như chúng ta ngày nay lái chiếc xe Bentley vậy. Bản thân ông ta rất hãnh diện đối với con ngựa này, cưỡi nó đến Dĩnh Đô triều cống. Kết quả bị lệnh doãn, chính là thừa tướng nước Sở Nang Ngõa nhìn thấy. Nang Ngõa vừa nhìn, biết đích thực là ngựa quý, liền nói với Đường Hầu, ngài có thể cho ta con ngựa không? Đường Hầu nói, ngựa không thể cho ngươi, ngay cả Sở Vương ta cũng không cho, ta làm sao có thể cho ngươi?
Khi đó quốc vương Thái Hầu của nước Thái cũng đến triều cống, Thái Hầu có một chiếc áo khoác da lông, cũng rất đẹp. Ông ta có hai cái, một cái tiến cống cho Sở Vương, một cái khác ông ta mặc trên người. Nang Ngõa vừa nhìn chiếc áo, rất thích, liền nói với Thái Hầu, ngài có thể cởi chiếc áo đang mặc cho ta không? Thái Hầu cũng không cho.
Kết quả Nang Ngõa chạy đến trước mặt Sở Vương tâu, Đường Hầu và Thái Hầu tuy đến triều cống cho chúng ta, nhưng bọn họ trong lòng hướng về Ngô, nếu như chúng ta để bọn họ trở về, họ có thể hợp lực cùng nước Ngô quay lại đánh chúng ta. Đó chính là lời sàm ngôn của Nang Ngõa. Nang Ngõa nói, thần nghĩ biện pháp tốt nhất là không để cho bọn họ quay về. Lúc đó Sở Chiêu Vương còn rất nhỏ tuổi, liền đồng ý với yêu cầu của Nang Ngõa.
Nang Ngõa lập tức phái 1,000 binh sĩ, bắt Đường Hầu và Thái Hầu giam lỏng ở trong dịch quán, lần giam lỏng này thời gian là ba năm. Quý vị có cảm thấy Nang Ngõa quả thật tham lam đến phát rồ? Nhìn thấy một món đồ ưa thích, sau đó yêu cầu người ta cho, người ta không cho liền đem người ta giam lại, giam một cái là ba năm.
(Còn nữa)
Do Bi Hui biên tập
Sương Sương biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ
Xem thêm: