Sắc thái học và văn hóa tu luyện (4)
Hạn chế của lý luận về nguyên sắc
Tổng quan về lịch sử mỹ thuật, lý luận sắc thái học lưu hành ngày nay so với thời xưa khác nhau một trời một vực. Giới mỹ thuật một mực lưu truyền một câu nói rất nổi tiếng, thậm chí nhiều trường học cũng đều dạy như thế, nói rằng “ba màu đỏ, vàng, lam điều phối ra tất cả các màu sắc”. Người viết nhìn ra được, loại thuyết pháp này mặc dù có nguyên nhân lịch sử, nhưng rõ ràng dễ nhận thấy đó là lời lẽ sai trái. Bởi vì nếu quả thật giống như thế, như vậy tất cả các xưởng thuốc màu trên thế giới chỉ cần sản xuất ba loại màu này là đủ rồi, vì sao dưới tình huống đã có nhiều màu sắc như vậy vẫn còn đang không ngừng nghiên cứu phát minh thuốc màu mới?
Loại thuyết pháp này mặc dù khó mà chấp nhận được, nhưng là từ một bộ lý luận sắc thái trong lịch sử sau khi phát triển đến cực hạn đã dẫn đến bị biến dị. Cần ngược dòng tìm hiểu đến hơn hai trăm năm trước, trong phong trào Enlightenment dưới bối cảnh xúc tiến nâng cao tư tưởng khoa học (liên quan tới phong trào Enlightenment, trong một bài viết Giải đọc mỹ thuật 200 năm sau thời văn nghệ phục hưng có luận thuật mối quan hệ), sắc thái học phát triển càng ngày càng bày biện ra tình thế số hóa và khoa học kỹ thuật hóa.
Một số học giả thế kỷ 18, ví như nhà họa sĩ Jacob Christoph Le Blon người Đức, nhà số học Tobias Mayer, nhà côn trùng học kiêm bậc thầy chế bản người Anh Moses Harris.v.v., thông qua thí nghiệm, kết hợp nghiên cứu lĩnh vực toán học với khoa học, trên cơ sở những kinh nghiệm của người đi trước, đã từng bước thành lập một bộ thông qua cơ sở sắc điệu của ba loại màu đỏ, vàng, lam kết hợp đưa ra hệ thống lý luận sắc thái thời cận đại của các màu sắc đó. Những lý luận này thành công ảnh hưởng tới giới mỹ thuật, dần dần ở trong vòng tròn được coi như nguyên lý màu sắc.
Ba màu đỏ, vàng, lam trộn lẫn nhau quả thật có thể điều phối ra rất nhiều màu sắc khác nhau, trong sách giáo khoa cũng viết như thế, màu đỏ thêm màu vàng thành màu cam, màu lam thêm màu vàng có thể điều ra màu lục, màu đỏ thêm màu lam sẽ có được màu tím .v.v., cho nên không ít người lầm lẫn ba loại màu này có thể điều xuất ra hết thảy những màu sắc khác.
Tuy nhiên, người làm mỹ thuật trải qua huấn luyện chuyên nghiệp hoặc là người trời sinh đối với màu sắc tương đối mẫn cảm, lúc quan sát cẩn thận có thể phát hiện: thuốc màu đỏ trộn với thuốc màu vàng có được màu sắc xuất là một loại màu cam lệch tro, màu lam thêm màu vàng điều xuất ra kì thật là màu lục lệch tro, màu đỏ trộn với màu lam đạt được trên thực tế là màu tro tím. Mọi người trong cửa hàng mua được thuần cam, thuần lục, thuần tím muốn tương đối điều xuất ra các màu sắc tươi tắn chí ít cũng phải trải qua một hai cấp.
Nói cách khác, thực sự từ cấp bậc các màu tươi như màu đỏ, vàng, lam không thể điều xuất ra các màu cam, lục, tím, đây chính là lỗ hổng rõ ràng nhất trên thực tiễn của loại lý luận này. Cái gọi là hệ thống ba nguyên sắc đỏ, vàng, lam trong hiện thực hoàn toàn không cách nào bao quát được sắc vực cơ sở của các màu thuần cam, thuần lục, thuần tím, bởi vậy về sau trong lịch sử không ít học giả đối với lý luận này đều có phê bình sâu sắc, các chuyên gia cũng đồng loạt phát biểu lý luận sắc thái học mới. Nhà mỹ thuật người Pháp Jean-Georges Vibert trong tác phẩm xuất bản năm 1891 của ông ta còn thảo luận chuyên môn vấn đề này, cho rằng “ba nguyên sắc có thể điều ra tất cả màu sắc khác là một sai lầm” (Une erreur).
Lịch sử phát triển cho tới hôm nay, như phần mở đầu đã nói của bài này, ba nguyên sắc “thanh, phẩm, vàng” bản mới thành công xô ngã lý luận “đỏ, vàng, lam” bản cũ, nhưng bởi vì không có hệ thống hình thành đầy đủ, kết cấu lý luận này căn bản không có cách vận dụng vào trong hội họa, thậm chí còn không bằng phiên bản “đỏ, vàng, lam” trước kia. Mặc dù trong sách giáo khoa đã thay đổi phần lớn, nhưng trong thực tiễn vẫn là một phen hỗn loạn.
Trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, đối với lựa chọn màu sắc cơ sở là căn cứ vào kỹ thuật thời đại mọi người đang sống mà quyết định, cho nên khái niệm nguyên sắc cũng không nhất định cố định ở ba màu. Ví như trước mắt đã nghiên cứu ra lấy bốn màu đỏ, vàng, lam, lục làm màu sắc cơ bản của màn hình, các loại màu sắc trên màn hình do bốn loại ánh sáng màu này dựa theo tỉ lệ pha trộn khác biệt mô phỏng ra. Bởi vậy trong lĩnh vực kỹ thuật, ánh sáng ba nguyên sắc liền biến thành ánh sáng bốn nguyên sắc, kỹ thuật này gọi là “kỹ thuật bốn nguyên sắc”. Bởi vì cân nhắc đến khả năng về sau sẽ còn xuất hiện các loại kĩ thuật năm nguyên sắc, sáu nguyên sắc, giới mỹ thuật chuyên nghiệp dứt khoát gọi chung chúng làm “kĩ thuật biểu hiện đa nguyên sắc” (Multi-primary color display).
Nếu như phát triển một chút tầm mắt liền có thể nhìn thấy, từ xưa đến nay, giới học thuật cho tới bây giờ cũng sẽ không chỉ có một loại thanh âm. Lấy một ví dụ, mọi người đều biết Leonardo da Vinci trong hội họa có rất nhiều kiến giải, đối với màu sắc, ông đề xuất lý luận sáu nguyên sắc. Trong thời đại đó, mọi người còn không thống nhất sử dụng từ “nguyên sắc” như hôm nay, ông dựa theo thói quen của giới mỹ thuật lúc ấy dùng “màu sắc đơn giản” để hình dung sáu loại màu cơ sở này: trắng, vàng, lục, lam, đỏ, đen.
Sau khi lý luận ba nguyên sắc dừng chân trong giới học thuật, các nhà nghiên cứu đều bị hạn chế thực chứng trong cơ cấu khoa học, nhưng ngay cả như vậy, vẫn có học giả không đồng ý loại lý luận này. Được Leonardo da Vinci dẫn dắt, nhà sinh lý học người Prussia thế kỷ mười chín là Ewald Hering, (1834 ─1918) trải qua nhiều lần nghiên cứu, phát hiện công việc của hệ thống thị giác cơ bản là dựa vào cơ chế sắc thái đối lập, mà sắc thái là thông qua độ mẫn cảm không cảm giác được của màu sắc ba tổ đối lập là: Đỏ lục đối lập, vàng lam đối lập, trắng đen đối lập. Bởi vậy, đối với mắt người, màu sắc cơ sở sẽ không chỉ có ba màu. Phía sau lý luận này trải qua nghiệm chứng của rất nhiều chuyên gia, từng bước trở thành một trong những lý luận sắc thái chủ lưu sánh vai cùng lý luận ba nguyên sắc, cũng thúc đẩy “hệ thống sắc thái tự nhiên” thời hiện đại (Natural Colour System) và kiến lập “Không gian sắc thái CIELAB” (CIELAB color space), trong đó đem đỏ, vàng, lam, lục (Dưới một số tình huống còn tăng thêm trắng và đen) xác lập làm nguyên sắc.
Kỳ thật lý luận sắc thái học trên thế giới còn có khác biệt rất nhiều, ví như hệ thống sắc thái của Ostwald người Đức (Ostwald color system) xây dựng cơ sở lý luận bốn nguyên sắc, hệ thống sắc thái của Selma người Mỹ (Munsell color system) giảng hệ thống lý luận năm nguyên sắc… Những cái này so với lý luận ba nguyên sắc được dạy trong trường học khác biệt quá lớn, chỉ là rất nhiều người không hiểu rõ, mới lầm lẫn rằng sắc thái học chỉ có lý luận ba nguyên sắc.
Trong cuộc sống hiện thực cũng có thể phát hiện một số tình huống. Ví như bắt đầu từ cuối thế kỷ trước, rất nhiều công ty thương phẩm nổi danh lúc đang in ấn cao cấp cũng không cần in ấn bốn màu nữa, mà là áp dụng thêm in ấn sáu màu đắt đỏ. Bởi vì trong bốn màu cơ sở vốn có lại tăng thêm hai loại mực in rõ ràng làm ra sắc vực lớn, có thể tái hiện được màu sắc chuẩn xác hơn nữa, đóng dấu ra càng thêm sắc thái tinh mỹ. Nhưng nếu như lý luận ba nguyên sắc trong thực tiễn làm thật tốt như vậy, vì sao còn muốn gia tăng mực in màu sắc khác?
Đương nhiên, lý luận ba nguyên sắc cũng thuộc về một loại hình thức tồn tại, nó dù sao cũng có lịch sử nhất định, cũng nhận được sự ủng hộ của rất nhiều học giả, tạo thành hệ thống. Nhưng cần minh xác rằng, nó chỉ là một trong rất nhiều lý luận đối đãi với sự vật, thật giống như một mô hình hoặc một mô thức nào đó mà giới học thuật thường nói xây dựng nên, khiến người ta thông qua loại phương thức này mà tìm hiểu sự vật, mà bản thân mô hình cũng không phải là chân lý.
Chúng ta nhìn thấy, cho dù ở trong tầng diện nào của con người, những lý luận này cũng có tính hạn chế tương đối lớn, như vậy tại tầng thứ khác ở bên ngoài liền nói không thông suốt, ví như dưới góc độ quang sắc của công trong tu luyện mà nói, màu đỏ ở vào tầng năng lượng thấp, mà màu cam so với màu đỏ cao hơn một tầng, vậy tại sao màu đỏ thành nguyên sắc, mà màu cam cao hơn ngược lại là không phải? Màu tím so với màu lam, năng lượng ở tầng cao hơn, mà màu lam là nguyên sắc, màu tím vì sao lại không đảm đương nổi vị trí nguyên sắc? Cho nên tại cảnh giới cao hơn mà nhìn, đỏ, cam, vàng, lục, xanh, lam, tím mỗi loại màu sắc đều có một mặt ý nghĩa của bản thân nó và không thể thay thế, phía sau ẩn chứa nhân tố cực lớn, vì cái gì lại nhất định phải từ đó lấy ra mấy cái định nghĩa bọn chúng ai đúng ai sai?
Kỳ thật, không chỉ bảy màu sắc này, trong cửa hàng còn có thể phát hiện rất nhiều màu sắc đẹp đẽ, đều rất khó thông qua hỗn sắc mà điều chế ra. Ví như một màu đỏ ửng tươi mới, độ bão hòa của nó cùng màu đỏ chót tương đương nhau, nhưng lại mang một chút vị lạnh. Lúc này nếu như dùng màu đỏ chót thêm màu lam hoặc bất luận một loại màu lạnh nào khác, đều sẽ khiến màu sau khi hòa trộn u ám đi, căn bản là không có cách bảo trì độ tươi sáng cần có. Họa sĩ có kinh nghiệm đều biết, rất nhiều màu tươi mới căn bản không có khả năng thông qua hỗn sắc điều chế ra, biện pháp hữu hiệu trực tiếp nhất chính là đến mua trong cửa hàng.
Nơi này còn có một vấn đề là tính ổn định của thuốc màu. Thuốc màu khác biệt là từ nguyên liệu vật chất khác biệt chế thành, giữa bọn chúng rất dễ dàng phát sinh một vài phản ứng hóa học, phá hỏng tính bền vững hoặc là trình độ kết mô chắc chắn của thuốc màu. Mà trải qua kiểm nghiệm tự nhiên rút ra được vấn đề màu sắc chỉ cần không tùy tiện pha trộn, liền sẽ không có gì quá lớn ở phương diện này. Nhất là đối với loại hình tranh dầu, loại tranh có đặc tính mẫn cảm, điểm này rất quan trọng.
Lấy một ví dụ, như Cadmium cam, nó trực tiếp chính là một loại sắc liệu màu cam đơn nhất, mà không phải tạo thành khi pha trộn giữa màu đỏ và màu vàng, lúc sử dụng đơn độc không có vấn đề gì. Nhưng nếu có người thông qua Cadmium đỏ cùng crôm vàng hòa trộn lẫn nhau mà điều chế ra màu cam, như vậy theo thời gian trôi qua, màu cam có được rất có thể sẽ bởi vì một chuỗi phản ứng hóa học mà biến thành màu nâu.
Bởi vì những nguyên nhân này, dù là đến thế kỷ mười chín, liên quan tới cấm kị của màu sắc hỗn hợp trong giới mỹ thuật vẫn là nội dung thảo luận nghiêm túc giữa các họa sĩ. Nhưng tùy theo nhận thức dần dần nâng cao của phái hiện đại thời kì sau, những học vấn nghiêm cẩn này chầm chậm từng chút không hề được coi trọng, cũng đưa đến việc một số hiểu biết đứt gãy và thất truyền, thậm chí rất nhiều tác phẩm hội họa bởi vì thuốc màu sau mấy chục năm thậm chí sau mấy năm nứt tróc ra rồi tự hủy hoại. Đây cũng là lịch sử tiến nhập vào thời kì mạt pháp, hết thảy đều theo đại thế mà biểu hiện bại hoại.
Hai thế kỷ đến nay, tư tưởng của người ta đã biến đổi rất lớn so với người xưa. Trong lịch sử mấy ngàn năm có ghi chép lại, quan niệm, văn hóa chỉnh thể của nhân loại, đều khác một trời một vực với người hiện đại. Mọi người ngoài miệng nói tôn trọng truyền thống chỉ là hình thức, kỳ thật trong đầu óc chẳng thèm ngó ngàng đến tư tưởng chính thống đặt định mấy ngàn năm. Rất nhiều người đều bị che đậy trong giả tướng của hiện thực, tư tưởng lại bị các loại ý thức hiện đại thay thế, đánh mất bản thân, mặc dù thân ở biên duyên bên ngoài tầng núi, nhưng lại như một khối dị thường, đi theo thủy triều bại hoại nước chảy bèo trôi.
Hôm nay, chúng ta đứng trong một mảnh phế tích tìm dấu vết văn hóa thần truyền lưu lại, được pháp lý khai sáng, xuyên qua sương mù mê mờ, bước qua gai góc, từng bước một đi trở về con đường truyền thống. Quá trình nghệ thuật trở về cũng chính như quá trình tu luyện, hết thảy cũng sẽ quy chính trong hồng thế, trở về trong trạng thái thuần chân, thuần thiện, thuần mỹ, lại lần nữa mở ra hào quang nghệ thuật thần truyền.
Tài liệu tham khảo:
- Aristote, De Sensu et Sensibilibus, 4th century BC
- Cennino Cennini, Libro dell’ Arte, 1437
- Charles Moreau-Vauthier, La peinture, 1913
- Ewald Hering, Zur Lehre vom Lichtsinne, 1878
- Étienne Dinet, Les Fléaux de la Peinture, 1926
- Giorgio Vasari, Le vite de’ più eccellenti pittori, scultori e architettori, 1550
- Jacques-Nicolas Paillot de Montabert, Traité complet de la Peinture, 1829
- Jean-Georges Vibert, La Science de la peinture, 1891
- Leonardo da Vinci, Trattato della pittura, 1651
- Léonor Mérimée, De la peinture à l’ huile, 1830
- Paul Coremans, Les Primitifs flamands, 1953
Do Arnaud H. thực hiện
Toan Đinh biên dịch
Quý vị xem bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ
Xem thêm: