Phụ tá bác sĩ bị sa thải vì báo cáo các tác dụng phụ của vaccine COVID-19 cho VAERS
Chỉ vì nhiều lần nỗ lực báo cáo các tổn thương cho Hệ thống Báo cáo Tác dụng phụ của Vaccine (VAERS) và chỉ dẫn cho những người khác trong hệ thống bệnh viện của mình biết cách làm tương tự mà Phụ tá Bác sĩ Deborah Conrad cho biết bà đã bị dán nhãn là một người chống vaccine và bị đuổi việc.
Giờ đây, bà Conrad, hiện đang sinh sống tại New York, kể lại câu chuyện của mình tại các hội nghị về tự do y tế trên khắp đất nước. Lần mới đây nhất là hội nghị ở Mississippi, nơi mà các bác sĩ, nhà khoa học, và những người bị tổn thương do vaccine đã cảnh báo các nhà lập pháp tiểu bang cần phải cấm những loại vaccine COVID-19 này trên thị trường.
Trao đổi với với The Epoch Times, bà Conrad cho biết rằng hồi năm 2021 bà đã bắt đầu nhận thấy các dấu hiệu nguy hiểm ban đầu khi loại vaccine này được khai triển, và cùng với điều đó là sự phản kháng của đồng nghiệp trong việc báo cáo về những dấu hiệu này.
“Sau khi những loại vaccine này được đưa ra, các triệu chứng bất thường đã gia tăng. Trong số đó, có một số triệu chứng mà tôi chưa từng gặp trong 20 năm hành nghề của mình,” bà Conrad nói. “Trong mọi trường hợp, đó là ở người đã chích vaccine COVID-19.”
Bà Conrad cho biết bà chưa bao giờ tiếp nhận một bệnh nhân trưởng thành nào mắc RSV (virus hợp bào hô hấp) cho đến khi những loại vaccine COVID-19 này xuất hiện.
“Và mọi bệnh nhân mắc RSV đều đã được chích ngừa COVID,” bà Conrad nói. “Điều này là không bình thường.”
Bà cho biết, sau đó, có những thanh thiếu niên không mắc bệnh trước đó đã chích vaccine COVID-19 một tuần trước và, đột nhiên, họ bị viêm phổi và không thể hoạt động.
“Họ không thể đi lại hay ăn uống gì được, và họ vô cùng mệt mỏi,” bà Conrad nói.
Bà kể lại rằng chuyện này xảy ra vào năm 2021 trước khi bệnh viêm cơ tim được nói đến, vì vậy nhiều ca ban đầu có khả năng là viêm cơ tim lại được chẩn đoán là viêm phổi.
“Rất nhiều trường hợp viêm cơ tim này có các triệu chứng sốt vì phản ứng viêm rộng khắp đang diễn ra trong cơ thể, vì vậy những ca này sẽ được xem là nhiễm trùng, được điều trị như thể chúng tôi đang điều trị bệnh viêm phổi hoặc các cơn sốt không rõ căn nguyên,” bà Conrad cho biết. “Chúng tôi điều trị cho họ bằng thuốc kháng sinh và đủ thứ khác mà không nhận ra rằng họ đang bị suy tim.”
Bà Conrad đã bắt đầu báo cáo cho VAERS mà bà cho rằng đó là một nhiệm vụ quá sức và không dễ thực hiện vì giao diện người dùng của hệ thống này quá phức tạp.
Bà nói: “Tôi đầu tắt mặt tối hằng ngày bởi vì tôi phải tự đi thực hiện các báo cáo VAERS này.”
Bà kể lại rằng, trong các cuộc họp với ban lãnh đạo, bà đã đề nghị khai triển một hệ thống báo cáo và thuê ai đó quản lý những báo cáo này.
‘Một môi trường thù địch’
“Họ liên tục nói với tôi rằng chúng tôi đang xem xét vấn đề đó và chúng tôi sẽ liên lạc lại với bà,” bà Conrad cho biết. “Khoảng tháng 04/2021, ban lãnh đạo quay lại và nói rằng chẳng có ai ngoài tôi đang báo cáo các trường hợp tổn thương — ngụ ý rằng tôi bị điên và thực sự không có vấn đề gì xảy ra với những loại vaccine này.”
Bà cho biết, sau đó, ban lãnh đạo đã kiểm tra các báo cáo của bà và kết luận rằng bà đã báo cáo nghiêm trọng hơn so với thực tế.
Bà Conrad cho biết: “Sau đó, tôi được cho biết rằng việc thực hiện các báo cáo VAERS và thậm chí thảo luận về VAERS thì tức là đã thừa nhận vaccine là không an toàn, do đó việc này đã góp phần vào sự do dự chích vaccine.”
Từ đó, việc này đã trở thành một “môi trường rất thù địch” buộc bà phải tìm đến một cố vấn pháp lý. Người cố vấn pháp ý này đã viết những lá thư gửi cho Bộ Y tế, CDC, và FDA.
“Không ai quan tâm cả,” bà Conrad nói. “Cuối cùng, tôi đã bị như vậy. Điều đó thật phi đạo đức; tôi không thể chịu đựng được nữa. Các báo cáo VAERS này rất quan trọng nhằm bảo đảm các loại vaccine này là an toàn cho tất cả chúng ta. Tôi không thể nằm trong hệ thống lừa dối người dân Mỹ được nữa.”
Bà Conrad nói rằng bà đã quyết định trở thành một người tố cáo, kể câu chuyện của bà trên trang web The Highwire của ông Del Bigtree, mà bà biết rằng việc này sẽ khiến bà sẽ bị mất việc.
“Tôi không thể giữ im lặng được nữa, ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc mất đi sự nghiệp của mình và tất cả những gì tôi đã làm,” bà nói. “Vài tuần sau đó, tôi đã bị sa thải và bước ra ngoài như một tên tội phạm trước mặt tất cả các đồng nghiệp của mình.”
Bà nói rằng sáng kiến và hướng dẫn mà bà đưa ra để báo cáo với VAERS đã bị dập tắt vào ngày hôm đó.
Đạo luật Thương tật Vaccine Quốc gia năm 1986
Bà Barbara Loe Fisher, đồng sáng lập kiêm chủ tịch của Trung tâm Thông tin Vaccine Quốc gia (NVIC), cho biết rằng theo Đạo luật Thương tật Vaccine Quốc gia năm 1986, liên bang yêu cầu nhân viên y tế phải báo cáo các tác dụng phụ liên quan đến vaccine cho VAERS.
Bà Fisher đã làm việc với các bậc cha mẹ khác có con bị tổn thương do vaccine để thành lập NVIC vào năm 1982. Bà cũng có một người con trai bị tổn thương do vaccine DTP hồi năm 1980.
Bà Fisher nói với The Epoch Times, “Đạo luật năm 1986 là do các bậc cha mẹ của những đứa trẻ bị tổn thương do vaccine DPT thúc đẩy. Họ đã yêu cầu chính phủ thông qua luật này nhằm bảo đảm các điều khoản về việc cung cấp thông tin, ghi nhận, báo cáo, và nghiên cứu về an toàn vaccine trong hệ thống chích ngừa để bảo đảm vaccine an toàn hơn, đồng thời tạo ra một hệ thống bồi thường liên bang thay thế cho một vụ kiện chống lại các nhà bào chế vaccine gây tổn hại hoặc tử vong ở trẻ em.”
Ngoài việc NVIC lập luận rằng các bác sĩ và các nhà bào chế vaccine nên đưa ra sự đồng ý có hiểu biết và báo cáo các tổn thương, tổ chức này còn cho rằng họ cũng nên tiếp tục chịu trách nhiệm trước một tòa án dân sự để khuyến khích các bác sĩ quản lý vaccine một cách có trách nhiệm, để các nhà bào chế cung cấp các loại vaccine an toàn hơn, cũng như để liên bang bồi thường thỏa đáng cho trẻ em bị tổn thương do vaccine.
Bà Fisher nói, “Những nhà bào chế vaccine này đã đáp lại lời kêu gọi của chúng tôi về việc cải tổ luật liên bang đối với hệ thống chích ngừa bằng cách đe dọa sẽ để cho Hoa Kỳ không có vaccine dành cho trẻ em trừ khi chính phủ cho họ một lá chắn trách nhiệm pháp lý đối với tác hại do vaccine gây ra. Họ lập luận rằng nếu FDA cấp phép cho một loại vaccine dành cho trẻ em là ‘an toàn,’ và CDC đã khuyến nghị sử dụng rộng rãi loại vaccine này cho tất cả trẻ em, và các tiểu bang bắt buộc chích loại vaccine này để [trẻ em] được nhận vào nhà trẻ và trường học, thì nhà bào chế vaccine này sẽ không phải chịu trách nhiệm pháp lý về tác hại do dược phẩm này gây ra.”
Bà Fisher cho biết khi Đạo luật này được thông qua, các bác sĩ vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với các khiếu nại về sơ suất y tế và các công ty dược phẩm vẫn phải chịu trách nhiệm đối với các khiếu nại về lỗi thiết kế sản phẩm tại tòa án dân sự.
“Thật không may, Đạo luật năm 1986 ngày nay không còn giống như khi được thông qua hồi năm 1986,” bà Fisher nói. “Năm 1987, Quốc hội đã thông qua một sửa đổi nhằm tạo ra một lá chắn trách nhiệm pháp lý cho các bác sĩ và các nhà cung cấp vaccine. Trong những thập niên tiếp theo, các sửa đổi đã được thêm vào nhằm làm suy yếu hoặc loại bỏ các điều khoản về an toàn và khả năng trẻ em nhận được bồi thường của liên bang.”
Năm 1990, VAERS được ra mắt; tuy nhiên, bà Fisher cho biết, nếu một bác sĩ không nộp một báo cáo thì bác sĩ đó cũng không gặp hậu quả pháp lý nào.
Bà Fisher viết: “Đó là bởi vì trong Đạo luật năm 1986, Quốc hội đã đưa ra một yêu cầu liên bang để báo cáo mà không kèm theo các hình phạt pháp lý khi các công ty vaccine hoặc các nhà cung cấp vaccine không báo cáo.”
‘Một đơn thuốc cho chế độ chuyên chế’
Năm 2011, giữa hàng trăm vụ kiện về mối liên hệ giữa bệnh tự kỷ với chấn thương do vaccine, bà Fisher cho biết Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã phớt lờ ngôn ngữ lập pháp và các lý do ban hành Đạo luật năm 1986 khi pháp viện này bảo vệ các nhà bào chế vaccine khỏi mọi trách nhiệm dân sự đối với các trường hợp thương tích và tử vong do vaccine.
Bà Fisher cho rằng chính phủ liên bang đã đứng về phía các Đại công ty Dược phẩm (Big Pharma).
Bà nói, “Tại thời điểm đó, những người như chúng tôi vốn đã làm việc với Quốc hội về Đạo luật năm 1986 biết rằng niềm tin của chúng tôi đã bị phản bội vì các chính trị gia đã thực hiện các giao dịch ngầm với những công ty dược phẩm, các tổ chức kinh doanh y tế, và các cơ quan liên bang nhằm phá hỏng Đạo luật này sau khi Đạo luật được thông qua, đồng thời trao cho ngành dược phẩm những gì họ muốn hồi năm 1986 mà đã không đạt được: một lá chắn trách nhiệm pháp lý hoàn toàn trước những trường hợp tổn thương và tử vong do vaccine.”
Án lệ năm 2011 — Bruesewitz kiện Wyeth — xoay quanh cha mẹ của em Hannah Bruesewitz. Đôi vợ chồng này đã cáo buộc rằng vaccine mà hãng Wyeth sản xuất đã gây ra các vấn đề về thần kinh cho con gái họ. Wyeth là một công ty dược phẩm ở Pennsylvania về sau đã hợp nhất với hãng dược phẩm Pfizer.
Đạo luật năm 1986 đã thành lập một tòa án vaccine để xác nhận tổn thương do vaccine và bồi thường thiệt hại. Sau khi thua trong phiên tòa về vaccine này, gia đình Bruesewitz đã đưa vụ việc lên tòa án cao nhất.
Hồi năm 2011, bà Marcia Coyle cùng với Tập san Luật Quốc gia nói với PBS NewsHour rằng chỉ có tám Thẩm phán chủ trì vụ án này vì Thẩm phán Elena Kagan đã tự rút lui do bà tham gia với tư cách là Tổng Biện lý Sự vụ đại diện cho chính phủ liên bang trong vụ kiện này.
“Chính phủ của cựu Tổng thống Obama đang ủng hộ các phòng thí nghiệm của hãng Wyeth nói rằng vụ kiện này bị ngăn cản,” bà Coyle nói. “Vậy là có tám vị Thẩm phán. Có thể đã có bảy vị. Chánh án [John Roberts] đã tự rút lui trong những giai đoạn đầu vì ông sở hữu cổ phiếu của Wyeth và lúc đó ông đã bán cổ phiếu để tham gia vụ kiện này.”
Mối liên hệ dây mơ rễ má giữa công ty dược phẩm với các quan chức liên bang là điều mà bà Fisher nói rằng bà sẽ không gọi đó là một minh chứng về sức khỏe cộng đồng.
Trong một bài bình luận năm 2011 về phán quyết này, bà nói, “Đây là sự lợi dụng đối với một người đang chịu đựng sự giam hãm của một ngành công nghiệp dược phẩm theo đuổi lợi nhuận vô hạn và của các bác sĩ và thầy thuốc có thẩm quyền, những người chưa bao giờ không muốn ủy quyền cho một loại vaccine nào. Đó là giấc mơ của một cổ đông của công ty dược phẩm, cơn ác mộng tồi tệ nhất của một người tiêu dùng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, và đơn thuốc cho chế độ chuyên chế.”
Sau phán quyết này, Đạo luật năm 1986 dường như không còn phù hợp, và tầm quan trọng của việc báo cáo với VAERS đã bị hạ thấp. Các cáo buộc rằng các loại vaccine đã gây ra bệnh tự kỷ đã bị chế giễu trong các chiến dịch truyền thông của văn hóa đại chúng. Ví dụ như, các ảo thuật gia Penn và Teller đã chia sẻ rộng rãi video quảng cáo những loại vaccine này và phản đối gay gắt những người đặt câu hỏi về sự an toàn của vaccine trong khi phớt lờ những gì mà các nhóm như NVIC ban đầu kêu gọi: không phải là loại bỏ vaccine mà là vaccine phải an toàn hơn mà không phải bắt buộc.
Khi hồi tưởng lại, bà Fisher cho biết, “Nếu Tối cao Pháp viện giữ nguyên tinh thần và ý định của Đạo luật như ban đầu được thông qua hồi năm 1986, thì hiện nay chúng ta có thể đã buộc các nhà bào chế vaccine mRNA COVID phải chịu trách nhiệm về lỗi thiết kế trước một tòa án dân sự.”
Những loại vaccine COVID-19 này đã được cấp phép sử dụng khẩn cấp, cho phép những hãng bào chế này được miễn trừ trách nhiệm pháp lý.
‘Toàn bộ hệ thống này bị tha hóa’
Bản thân bà Conrad cho biết khi trong quá trình học tập để trở thành một phụ tá bác sĩ, bà chưa bao giờ được đào tạo để nhận thức về VAERS hoặc các tác dụng phụ.
“Khi bắt đầu tìm hiểu về những loại vaccine này, chúng tôi đã học về miễn dịch học căn bản liên quan đến vaccine cũng như lịch trình dành cho người lớn và trẻ em, nhưng không có cuộc thảo luận nào về tác dụng phụ của vaccine,” bà Conrad cho biết. “Chúng tôi tiến vào hành nghề với quan điểm rằng vaccine là an toàn và hiệu quả. Tôi chưa bao giờ nhìn nhận khác cho đến khi COVID-19 xảy ra.”
Bà Conrad cho biết đại dịch này đã mang lại cho bà những hiểu biểu sâu sắc, trong đó có nhận thức rằng mối quan hệ phi đạo đức giữa các quan chức liên bang và tổ hợp công nghiệp dược phẩm đã diễn ra lâu hơn so với những gì nhiều người nhận ra.
Thanh Nguyên biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times