Nhìn thấu ‘Thuyết tiến hóa’ (Chương 2): Phá bỏ suy nghĩ sai lầm kinh điển trong thuyết tiến hóa (P.2)
Mời quý vị đón đọc Chuyên đề “Nhìn thấu Thuyết tiến hóa.”
2. Không phải “chọn lọc tự nhiên” mà là “thiết kế có chủ ý”
Giả thuyết tiến hóa cho rằng tất cả các sinh vật, bao gồm cả động vật, thực vật và nấm, đều cạnh tranh với nhau để sinh tồn trong quá trình tiến hóa lâu dài, kết quả là kẻ thích nghi nhất thì sống sót, còn kẻ yếu bị loại bỏ. Quá trình này được gọi là “chọn lọc tự nhiên.”
Darwin cho rằng: “Nếu chúng ta xem mỗi loài sinh vật là hậu duệ của một loài chưa biết, thì cha mẹ của chúng và tất cả các loài chuyển tiếp có lẽ đã bị tiêu diệt bởi chính quá trình hình thành và hoàn thiện của loài mới.” (Hence, if we look at each species as descended from some other unknown form, both the parent and all the transitional varieties will generally have been exterminated by the very process of formation and perfection of the new form.) [114]
Vào khoảng giữa thế kỷ 20, Gs.Ts Richard Goldschmidt (1878~1958), nhà động vật học và di truyền học nổi tiếng tại Đại học California, Berkeley đã bình luận: “Có một điều nên ghi nhớ rằng… chưa từng có ai thành công trong việc tạo ra dù chỉ một loài mới bằng cách tích lũy các đột biến vi mô. Lý thuyết chọn lọc tự nhiên của Darwin chưa bao giờ có bất kỳ bằng chứng nào, nhưng nó lại được chấp nhận rộng rãi. Không thể hình thành bất kỳ loài mới nào bằng đột biến vi mô. Sự thật về tiến hóa vi mô [sự thay đổi trong loài] không đủ để hiểu về tiến hóa vĩ mô [sự thay đổi từ loài này sang loài khác].” (It is good to keep in mind … that nobody has ever succeeded in producing even one new species by the accumulation of micromutations. Darwin’s theory of natural selection has never had any proof, yet it has been universally accepted. It’s impossible by micro-mutation to form any new species. The facts of microevolution [change within the species] do not suffice for an understanding of macroevolution [theorized change from one species to another) [115]
2.1 Tại sao cổ của hươu cao cổ lại dài như vậy
Cổ của hươu cao cổ (Giraffa camelopardalis) luôn là chủ đề nghiên cứu nóng hổi của các khoa học gia kể từ khi Darwin đưa ra giả thuyết tiến hóa. Hươu cao cổ có cổ và chân rất dài, đây là đặc điểm có một không hai trong số các loài động vật có vú.
Những lời giải thích được những người ủng hộ giả thuyết tiến hóa đưa ra là “giả thuyết thiếu thức ăn ở chỗ thấp” và “giả thuyết lựa chọn giới tính.”
Ví dụ, họ cho rằng tổ tiên của hươu cao cổ có thể đã phải đối mặt với thách thức thiếu lương thực, vậy nên những con vật này bắt đầu tiến hóa thành cổ dài hơn, để vươn tới cành lá cao hơn. Những cá thể có cổ dài này có lợi thế hơn những cá thể khác cùng loại vì chúng có thể kiếm được nhiều thức ăn hơn, có cơ hội sống sót cao hơn và có thể sinh sản dễ dàng hơn. Quá trình tiến hóa lâu dài này cuối cùng đã dẫn đến sự xuất hiện của hươu cao cổ hiện đại. [116]
Đầu tiên, có một số vấn đề logic cơ bản với những suy luận này:
Thứ nhất, nếu cổ của hươu cao cổ tiến hóa do thiếu thức ăn, thì không thể chỉ có hươu cao cổ gặp phải tình trạng như vậy, mà hẳn là có cả ngựa cao cổ, cừu cao cổ, gia súc cao cổ, v.v., nhưng mọi người đều không nhìn thấy những con vật này. Nói cách khác, những động vật khác sống cùng thời điểm với hươu cao cổ như ngựa, trâu bò, cừu đều không tiến hóa thành cổ dài, chúng đã sống sót, điều này cho thấy ở chỗ thấp vẫn có đủ thức ăn cho động vật.
Nếu ở những chỗ thấp cũng có thức ăn, tại sao hươu cao cổ lại tiến hóa thành cổ dài để kiếm thức ăn ở những nơi cao hơn? Chúng có thể tiến hóa thành lưỡi dài hơn hoặc thay đổi thói quen ăn uống, chẳng hạn như có thể ăn các loại thức ăn khác, hoặc tiến hóa ra các khả năng thích nghi khác để hấp thụ các loại thức ăn. Rõ ràng có những vấn đề về mặt logic trong “giả thuyết thiếu thức ăn ở chỗ thấp.” Điều thú vị hơn là, chúng ta vẫn thường nhìn thấy hươu cao cổ có thể ăn cỏ ở những chỗ đất thấp.
Thứ hai, những người ủng hộ thuyết tiến hóa sau này lại nói rằng hươu cao cổ có thể không chỉ do thiếu thức ăn mà còn có thể do chọn lọc giới tính, tức là những cá thể có cổ dài có khả năng dễ thu hút bạn tình hơn. [117] [118]
Tuy nhiên, có rất nhiều cách để thu hút bạn tình, chẳng hạn như tăng màu sắc, sức mạnh, v.v. Tại sao hươu cao cổ phải tốn nhiều sức lực và thời gian như vậy để “vất vả” tiến hóa ra chiếc cổ dài nhằm tăng sức hút với bạn khác giới? Chẳng phải các loài khác dù không có chiếc cổ dài vẫn đều có cách tìm bạn đời hay sao? Điều này cho thấy “giả thuyết lựa chọn giới tính” cũng không thể đứng vững.
Thứ ba, những người ủng hộ giả thuyết tiến hóa lại đưa ra một ý tưởng mới, đó là cổ của hươu cao cổ dài ra để tăng tính cảnh giác, giúp nó có thể chạy nhanh hơn khi gặp thiên địch. Họ cho rằng tổ tiên của hươu cao cổ giống với loài hươu đùi vằn (Okapia johnstoni), họ hàng gần duy nhất của hươu cao cổ chưa bị tuyệt chủng. Chúng sống trong rừng rậm, nơi có thảm thực vật phong phú giúp chúng dễ dàng tránh khỏi những kẻ săn mồi. [119]
Họ cho rằng hươu cao cổ sống ở đồng cỏ, tương đối thoáng và không có nơi ẩn nấp. Khi gặp kẻ săn mồi, chúng cần phải chạy để thoát thân. Trên thảo nguyên rộng lớn, việc tăng chiều cao và chiếc cổ dài có thể giúp hươu cao cổ nhìn xa hơn, dễ dàng phát hiện thiên địch sớm hơn, từ đó kịp thời chạy trốn.
Nói tóm lại, những người ủng hộ giả thuyết tiến hóa cho rằng hươu cao cổ có cổ và chân thon dài để tăng cường cảnh giác, chạy nhanh hơn khi gặp kẻ săn mồi, nhờ đó cải thiện tỷ lệ sống sót.
Tuy nhiên, có một số vấn đề với giả thuyết này: dù hươu cao cổ có cảnh giác đến đâu thì cũng không cảnh giác bằng báo hoa mai, chân dài đến đâu thì cũng không chạy nhanh bằng báo hoa mai; hơn nữa tại sao phần lớn động vật có tính cảnh giác cao, phản ứng nhanh nhạy và chạy nhanh trên đồng cỏ Phi Châu lại có chân ngắn? Đồng thời, do chiều dài của cổ và chân tăng lên, nó cũng trở nên lớn hơn và dễ bị kẻ thù phát hiện hơn. Vì vậy, logic của giả thuyết này cũng không thể đứng vững.
Những suy luận từ góc độ của thuyết tiến hóa trên đều có những sai lầm logic nghiêm trọng. Ngoài ra, xét từ quan điểm sinh học, cũng tồn tại những vấn đề nghiêm trọng khi dùng thuyết tiến hóa để giải thích chiếc cổ dài của hươu cao cổ.
1. Trải qua thời gian dài: Quan điểm của Darwin về sự tiến hóa dần dần là thay đổi từng chút một, cổ dài hơn một chút, trái tim lớn hơn một chút và cơ bắp khỏe hơn một chút. Ngay cả khi sự tiến hóa như vậy là có thể xảy ra thì cũng sẽ cần một thời gian rất dài. Trước khi nó “tiến hóa” thành một chiếc cổ đủ dài thì môi trường sống của nó có thể đã trải qua những thay đổi to lớn. Hơn nữa, không tìm thấy loại hóa thạch hươu cao cổ trung gian nào, chứng tỏ quá trình này chưa từng xảy ra.
2. Xác suất cực nhỏ: Một loài muốn biến đổi thành một loài khác, thì không chỉ là biến đổi cục bộ mà còn là biến đổi mang tính hệ thống trong toàn bộ cơ thể. Ví dụ, khi cổ dài ra, trái tim cũng cần trở nên mạnh mẽ hơn mới có thể vận chuyển được máu đến nơi cao hơn, hệ thống kiểm soát huyết áp cũng cần được cải thiện; khi chân dài ra, xương, mạch máu, cơ và dây thần kinh cũng phát triển theo. Những thay đổi này cần phải được hoàn thành gần như đồng thời thì mới có thể sinh ra thành công một con hươu cao cổ chân dài, cổ dài.
Cấu trúc chuỗi xoắn kép DNA của động vật rất ổn định, mức độ biến dị rất nhỏ, hơn nữa mỗi lần chỉ có thể thay đổi một chút. Vậy nên, nếu muốn rất nhiều gene đồng thời đột biến theo cùng một hướng, đây là một sự kiện với xác suất nhỏ đến mức không thể nhỏ hơn được nữa.
Ngoài ra, những thay đổi trong các loài chuyển tiếp cũng cần đồng thời xảy ra ở nhiều cá thể trong cùng một loài, như thế mới có thể cho phép các gene chứa các đột biến quan trọng được truyền lại cho thế hệ sau. Sự kiện thậm chí còn ít khả năng xảy ra hơn này là quá xa vời để giải thích cho những thay đổi trong các loài sinh vật.
3. Biến dị bệnh lý: Mặc dù giả thuyết tiến hóa cho rằng đột biến gene là ngẫu nhiên, nhưng trên thực tế phần lớn đột biến gene đều là có hai (xem chi tiết tại “Chương 3”). Giáo sư bệnh học người Đức Rudolf Virchow cho rằng “việc bắt buộc phải cải biến các chuẩn mực sinh lý luôn tồn tại, điều này chỉ có thể gọi là dị thường. Vào thời cổ đại, những điều dị thường được gọi là bệnh hoạn (pathos), theo nghĩa này, mọi sai lệch so với bình thường, đối với tôi đều là một sự kiện bệnh hoạn.” [120]
Vậy nên, rất nhiều gene đồng thời biến dị và sai lệch theo cùng một hướng như vậy, đây không chỉ là sự kiện với xác suất nhỏ không thể nhỏ hơn, mà đối với một loài đang sống một cuộc sống bình thường và khỏe mạnh, nó rất có thể giống như một căn bệnh nghiêm trọng và gây nguy hiểm đến tính mạng.
Những lời giải thích của những người ủng hộ giả thuyết tiến hóa về sự xuất hiện của hươu cao cổ, cũng giống như logic về việc gấu biến thành cá voi. Nó trông giống truyện cổ tích hay khoa học viễn tưởng, chứ không phải là một giả thuyết khoa học. Vì vậy, chúng ta cũng không cần phải dùng những lý luận cao siêu để giải thích, chỉ dùng kiến thức thông thường để phán đoán một chút là có thể phân tích ra được. Sự phức tạp của sinh mệnh không thể được giải thích bằng một giả thuyết tiến hóa như vậy.
Để “tiến hóa” ra chiếc cổ dài như hươu cao cổ đã vô cùng khó khăn như vậy, mà quá trình biến đổi từ sinh vật dưới nước thành sinh vật trên cạn cũng đòi hỏi hàng ngàn đột biến đồng thời ở các cấu trúc sinh lý cơ bản, bao gồm mắt, mũi, hệ tiêu hóa, phổi, cơ và xương v.v. Điều cần thiết hơn là thay đổi mã hóa và biểu hiện của rất nhiều gene để đạt được những thay đổi về kiểu hình ở cấp độ toàn bộ tế bào, mô, cơ quan và hệ thống. Rất nhiều sự kiện xác suất vô cùng nhỏ xảy ra cùng nhau như vậy, đây chỉ có thể là quá trình “thiết kế.”
Do đó, khi chúng ta phân tích các lý thuyết mà các nhà tiến hóa sử dụng để giải thích sự tiến hóa của hươu cao cổ, không khó để kết luận rằng: các loài không thể tiến hóa thông qua chọn lọc tự nhiên, mà khả năng cao hơn là đã được thiết kế ra như vậy.
2.2 Con mắt khiến Darwin kinh ngạc
Vào năm 1860, Darwin đã viết cho Asa Gray (1810~1888) [121] (cha đẻ của ngành thực vật học Hoa Kỳ) rằng: “Tôi đồng ý về những điểm yếu [của nguồn gốc các loài]. Cho đến tận bây giờ, đôi mắt vẫn khiến tôi rùng mình ớn lạnh, nhưng khi tôi nghĩ đến những khác biệt vi tiểu đã biết, lý trí mách bảo tôi rằng tôi phải chế ngự được cái rùng mình ớn lạnh đó.” (About weak points [of the Origin] I agree. The eye to this day gives me a cold shudder, but when I think of the fine known gradations, my reason tells me I ought to conquer the cold shudder.) [122]
Darwin thừa nhận rằng ông đã bị ấn tượng bởi sự phức tạp của con mắt, thừa nhận rằng con mắt là một bí ẩn trong quá trình tiến hóa. Trong cuốn “Nguồn gốc các loài,” Darwin viết rằng: “Con mắt có thiết kế vô song để điều chỉnh tiêu điểm, cho phép thu được lượng ánh sáng khác nhau, đồng thời hiệu chỉnh quang sai hình cầu và màu sắc. Tôi thẳng thắn thú nhận giả thuyết cho rằng đôi mắt được hình thành do chọn lọc tự nhiên là điều có vẻ vô lý nhất.” (Organs of extreme perfection and complication. — To suppose that the eye, with all its inimitable contrivances for adjusting the focus to different distances, for admitting different amounts of light, and for the correction of spherical and chromatic aberration, could have been formed by natural selection, seems, I freely confess, absurd in the highest possible degree.) [123]
Hơn 160 năm qua, nan đề này đã được giải quyết chưa? Nó không những không được giải quyết mà còn ngày càng khiến mọi người bối rối hơn khi mọi người hiểu sâu hơn về các cấu trúc, tế bào, phân tử và quá trình sinh hóa tinh vi của các lớp khác nhau của con mắt.. Darwin đã cố gắng khắc phục nan đề này để biện hộ cho lý thuyết của mình, nhưng điều mà mọi người không thể không thừa nhận, đó là độ khó của việc này lớn đến mức không thể tưởng tượng được, chẳng khác nào “mò trăng đáy nước.”
Mắt là một cơ quan thần kỳ, nó sở hữu cấu trúc tinh tế, mỗi bộ phận đều thực hiện một chức năng quan trọng, cho phép chúng ta có thể cảm nhận và thưởng thức thế giới mỹ diệu này. Độ phức tạp của đôi mắt khiến người ta kinh ngạc, nó phức tạp hơn nhiều so với những thiết bị tinh vi nhất mà con người tạo ra.
Mắt người giống như một chiếc máy ảnh có thể điều chỉnh tiêu cự, kiểm soát lượng ánh sáng đi vào, hiệu chỉnh quang sai hình cầu và sắc độ. Mắt người có tầm nhìn rộng hơn nhiều so với máy ảnh, nó có thể thích ứng với các cường độ ánh sáng khác nhau. Ngay cả những ống kính máy ảnh tiên tiến nhất hiện nay, vĩ độ phơi sáng (phạm vi sáng nhất và tối nhất có thể chụp được) của nó cũng không rộng như phạm vi mà mắt người có thể nhìn thấy. Đôi mắt không chỉ có thể nhìn thấy hình dạng ba chiều của vật thể mà còn có tầm nhìn cực rộng, hình ảnh không bị biến dạng, chuyển động cũng không bị gián đoạn. Mắt hoạt động đồng thời cùng với bộ não, cho phép chúng ta nhìn thấy màu sắc, phân biệt các hoa văn và hình dạng, nhìn thấy hình ảnh lập thể, cho phép tầm nhìn của chúng ta theo dõi các vật thể hoặc hình ảnh chuyển động mà không bị nhòe.
Mắt người cũng giống như một siêu máy tính tiên tiến, không chỉ có khả năng xử lý thông tin đáng kinh ngạc mà còn hoạt động nhanh hơn và vượt trội hơn nhiều so với các công cụ, máy tính hay máy ảnh do con người tạo ra.
Võng mạc là một phần quan trọng của mắt, nó bao gồm 10 lớp được sắp xếp một cách có trật tự¹²⁴. Từ sâu đến nông là màng giới hạn trong (Internal limiting membrane), lớp sợi thần kinh (Nerve fiber layer), lớp tế bào hạch (Ganglion cell layer), lớp đám rối trong (Inner plexiform layer), lớp nhân bên trong (Inner nuclear layer), lớp đám rối ngoài (Outer plexiform layer), lớp nhân bên ngoài (Outer nuclear layer), màng giới hạn ngoài (External limiting membrane), lớp tế bào cảm quang (Photoreceptor layer) và biểu mô sắc tố võng mạc (Retinal pigment epithelium).
Chúng ta hãy tập trung vào một số tế bào then chốt trong đó:
1. Biểu mô sắc tố rất giàu hắc tố, giúp hấp thụ ánh sáng và ngăn phản xạ, từ đó bảo đảm tầm nhìn rõ ràng. Nó cũng hỗ trợ cho kết cấu và chức năng của các tế bào cảm quang, bảo vệ võng mạc và hình thành hàng rào võng mạc ngăn chặn các chất có hại xâm nhập. [125]
2. Có hai loại tế bào cảm quang [126] là tế bào hình nón (khoảng 4.5 triệu) và tế bào hình que (khoảng 91 triệu). Tế bào hình nón cho phép chúng ta nhìn thấy những hình ảnh đầy màu sắc và có độ nét cao; tế bào hình que nhạy cảm với ánh sáng hơn hàng nghìn lần so với tế bào hình nón, cho phép chúng ta nhìn thấy hình ảnh ngay cả trong môi trường thiếu sáng. Trên thực tế, trong điều kiện lý tưởng, một tế bào hình que thậm chí có thể cảm nhận được sự hiện diện của một photon (hạt cơ bản tạo nên ánh sáng)!
Điểm vàng (macula) là nơi thị lực sắc nét nhất, chứa nhiều tế bào cảm quang nhất. Chỗ lõm nông ở trung tâm của điểm vàng được gọi là hố mắt (fovea), mật độ tế bào hình nón ở đây tăng gần 200 lần.
Việc sinh ra thị giác nói thì dễ, nhưng kỳ thực đòi hỏi một loạt các phản ứng điện sinh hóa phức tạp giữa các tế bào võng mạc, thần kinh thị giác và tế bào não. Phản ứng này bắt đầu trong lớp tế bào cảm quang (Photoreceptor) của võng mạc. Tế bào cảm quang sở hữu một loại khả năng đặc biệt, có thể chuyển tín hiệu ánh sáng thành tín hiệu điện. Những thứ tiếp theo giống như quân bài domino, phản ứng này nối tiếp phản ứng khác, cho đến khi sinh ra thị giác.
Tín hiệu ánh sáng chuyển thành tín hiệu điện như thế nào? Khi ánh sáng xuyên qua giác mạc, thủy tinh thể, dịch thủy tinh của mắt và đến các tế bào cảm quang của võng mạc, chúng được các tế bào cảm quang cảm nhận, các tế bào cảm quang giống như được bật công tắt và bắt đầu hoạt động. Trong các tế bào cảm quang có một loại phân tử đặc biệt gọi là “rhodopsin,” được cấu tạo từ retinal và opsin. Sau khi photon được rhodopsin hấp thụ dẫn đến sự thay đổi cấu trúc, nó sẽ kết hợp với một loại protein gọi là “transducin,” tiếp đó kết hợp với “phosphodiesterase” (PDE) để phân hủy một lượng lớn “cyclic guanosine monophosphate” (cGMP) – một loại phân tử tín hiệu quan trọng trong tế bào; tính thấm của các kênh ion natri giảm dẫn đến những thay đổi về điện thế tế bào, từ đó tạo ra các tín hiệu điện tế bào truyền đến tế bào lưỡng cực. [127]
3. Tế bào lưỡng cực có nhiệm vụ nhận thông tin từ tế bào cảm quang và truyền cho tế bào hạch. Tế bào hạch giúp truyền tín hiệu điện đến đại não thông qua các synapse. Trong đại não có rất nhiều cơ chế khác tham gia vào việc nhận biết và giải thích tín hiệu này. Chỉ khi chúng đều hoạt động bình thường thì mới có thể hình thành một hình ảnh rõ ràng, từ đó chúng ta mới có thể nhìn thấy vật thể.
4. Võng mạc cũng chứa rất nhiều tế bào hỗ trợ, trong đó quan trọng nhất là tế bào Müller. Chúng kết nối với các tế bào cảm quang và tạo thành một lớp dày đặc gọi là màng giới hạn ngoài. Những tế bào này giúp hấp thụ ánh sáng, đồng thời tạo thành phần mở rộng cuối cùng được bao phủ bởi màng đáy trên võng mạc, được gọi là màng giới hạn trong. Ngoài ra, võng mạc còn có các tế bào hỗ trợ khác giúp duy trì chức năng bình thường của mắt. Xin lưu ý rằng, mỗi một khâu trong toàn bộ quá trình này đều không đơn giản, đều là những cấu trúc và chức năng đã được dày công thiết kế. Sự sắp xếp và vận hành giữa các bộ phận protein cũng không đơn giản, nó giống như một công cụ chính xác vô cùng phức tạp, chỉ khi các bộ phận được kết hợp lại thì mới có thể hoạt động. Chúng ta đều biết rằng đồng hồ Thụy Sĩ vô cùng chính xác, đôi khi vỏ của bộ chuyển động được làm trong suốt để mọi người có thể nhìn thấy các bánh răng và cơ chế vô cùng chính xác bên trong, sai một chút là khiến chiếc đồng hồ này không thể hoạt động. Kết cấu và chức năng của con đường truyền tải thị giác của mắt còn chính xác hơn hàng nghìn lần so với chiếc đồng hồ này! Ngay cả chiếc đồng hồ cũng cần phải được những người có tay nghề chuyên nghiệp thiết kế tỉ mỉ, thử hỏi con mắt vốn tinh xảo và phức tạp hơn nó rất nhiều có thể là do ngẫu nhiên mà sinh ra hay không? Nếu nó không phải được thiết kế, làm thế nào mà nó có thể được sinh ra?
Lấy một ví dụ khác, một cái bẫy chuột chỉ hoạt động khi các bộ phận của nó được lắp ráp trôi chảy. Một bộ phận đơn lẻ, chẳng hạn như chân đế, lò xo, thanh cố định, cung, mồi v.v. đều không thể gọi là cái bẫy chuột và không thể phát huy vai trò của cái bẫy chuột. Các bộ phận phải được đặt cùng vào đúng vị trí thì mới tạo ra một cái bẫy có thể bắt chuột. Đôi mắt cũng vậy, là cái gì đã kết hợp tinh vi và liên kết chính xác các bộ phận khác nhau của mắt khiến nó có được chức năng kỳ diệu như vậy?
Những người ủng hộ giả thuyết tiến hóa lập luận rằng cơ hội thúc đẩy sự tiến hóa, nhưng liệu cơ hội, vào đúng thời điểm đó, có thể tập hợp tất cả các bộ phận lại với nhau thành một cỗ máy phức tạp như vậy không? Hơn nữa, nguồn gốc kết cấu của mắt, chẳng hạn như nguồn gốc các tế bào cảm quang của võng mạc là từ đâu? Làm sao để tiến hóa ra quá trình sinh lý, sinh hóa và cấu trúc phức tạp mà hiệu quả liên quan đến việc tạo ra thị giác? Về điều này, họ không thể đưa ra lời giải thích hợp lý.
Giả thuyết tiến hóa cho rằng đôi mắt được truyền lại cho thế hệ tiếp theo thông qua một chuỗi dài các thay đổi ngẫu nhiên, mỗi thay đổi đều làm cho sinh vật phù hợp hơn với cuộc sống. Nhưng hầu hết các loài động vật đều sống ở đồng cỏ, rừng rậm và bầu trời với môi trường tương tự nhau, tại sao tròng đen của chúng lại có nhiều màu sắc như vậy? Còn nữa, tại sao ruồi phải tiến hóa ra phức nhãn? Điều này có nhất định liên quan đến chọn lọc tự nhiên và cạnh tranh sinh tồn hay không?
Giáo sư hóa sinh nổi tiếng người Mỹ Michael Behe (1952-) đã nói rằng: “Chọn lọc tự nhiên – cơ sở cho giả thuyết tiến hóa của Darwin – chỉ có ý nghĩa nếu có sự chọn lọc, và sự chọn lọc đó áp dụng cho hiện tại, không phải là tương lai.” [128]
Giả thuyết tiến hóa của Darwin chỉ xoay quanh sự sinh tồn và sinh sản, nhiều nhất cũng chỉ có thể đáp ứng nhu cầu của môi trường sống hiện tại, bởi vì do nhu cầu của môi trường mới sinh ra một số cơ quan hoặc chức năng nhất định. Mà trong giới sinh vật, có rất nhiều chức năng sinh học không cần thiết cho sinh sản và sinh tồn.
Máy ảnh, kính viễn vọng và kính hiển vi đều cần con người thiết kế và chế tạo, hơn nữa không thiết bị nào trong số này có thể được chế tạo tốt hơn con mắt. Con mắt tinh diệu phức tạp này lẽ nào không phải được thiết kế ra hay sao? Làm sao có thể xảy ra trường hợp những con mắt kỳ diệu này tiến hóa ra một cách tình cờ thông qua một loạt các sự kiện ngẫu nhiên?
Chương 6 của cuốn “Nguồn gốc các loài” đề cập đến “Những khó khăn của lý thuyết,” Darwin viết trong phần “Các cơ quan vô cùng hoàn hảo và phức tạp” rằng: “… thật không thể tin được rằng một con mắt hoàn hảo và phức tạp có thể được hình thành do chọn lọc tự nhiên, điều này kỳ thực là ngoài sức tưởng tượng của chúng ta, rất khó để có thể được coi là thật.” (then the difficulty of believing that a perfect and complex eye could be formed by natural selection, though insuperable by our imagination, can hardly be considered real.) [129]
Mặc dù Darwin thừa nhận rằng sự tinh diệu và phức tạp của con mắt là không thể giải thích được, nhưng ông vẫn cố thủ ý tưởng của mình và không chịu từ bỏ, cũng giống như tâm thái bảo thủ của rất nhiều người ủng hộ Darwin trong thời hiện đại.
Giáo sư Michael Behe từng nói rằng: “Giới khoa học bị tê liệt khi đối mặt với sự phức tạp to lớn của tế bào mà hóa sinh học hiện đại phát hiện. Không có một nhà khoa học nào của Harvard, Viện Y tế Quốc gia hay Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia, cũng không có một người đạt giải Nobel nào có thể trình bày chi tiết cách thức tạo ra lông mao của vi khuẩn, thị giác của con người hoặc quá trình đông máu, hoặc làm thế nào phát triển ra bất kỳ quá trình sinh hóa phức tạp nào theo phương thức của Darwin. Nhưng chúng ta đang tồn tại ở đây. Thực vật và động vật đang tồn tại ở đây. Các hệ thống phức tạp đang tồn tại ở đây. Tất cả những điều này bằng cách nào đó đã đến đây: nếu không phải theo cách của Darwin, thì bằng cách nào?” (In the face of the enormous complexity that modern biochemistry has uncovered in the cell, the scientific community is paralyzed. No one at Harvard University, no one at the National Institutes of Health, no member of the National Academy of Sciences, no Nobel prize winner—no one at all can give a detailed account of how the cilium, or vision, or blood clotting, or any complex biochemical process might have developed in a Darwinian fashion. But we are here. Plants and animals are here. The complex systems are here. All these things got here somehow: if not in a Darwinian fashion, then how?) [130]
Nhà sinh vật học phân tử, vi sinh học nổi tiếng, Gs.Ts Ian Macreadie của Viện Công nghệ Melbourne, Australia từng nói: “Thuyết tiến hóa cho rằng mọi thứ đều sẽ được cải thiện, còn tôi lại thấy mọi thứ đang sụp đổ. Gene bị gián đoạn và đột biến (lỗi xảy ra khi DNA được sao chép qua mỗi thế hệ) dẫn đến các bệnh di truyền, từ đó tạo ra gánh nặng ngày càng tăng cho cộng đồng. Tất cả mọi thứ đều đã được thiết kế cẩn thận ngay từ đầu.” (Evolution would argue for things improving, whereas I see everything falling to pieces. Genes being corrupted, mutations [mistakes as DNA is copied each generation] causing an increasing community burden of inherited diseases. All things were well designed initially.) [131]
3. Tưởng chừng “thoái hóa cấu trúc,” kỳ thực lại “có tác dụng lớn”
Ông Jean-Baptiste Lamarck, nhà sinh vật học người Pháp đã giải thích lý thuyết “sử dụng hoặc mất” trong cuốn “Triết học động vật” (Philosophie zoologique), lập luận rằng các sinh vật sống thay đổi tập tính của chúng dưới ảnh hưởng trực tiếp của môi trường mới, một số cơ quan được sử dụng thường xuyên sẽ trở nên phát triển hơn và mạnh mẽ hơn, trong khi các cơ quan ít được sử dụng sẽ bị thu nhỏ về cấu trúc và dần dần thoái hóa về chức năng.
Darwin đã xuất bản cuốn “Nguồn gốc các loài” vào năm 1859 dựa trên lý thuyết “sử dụng hoặc mất” do Lamarck đề ra. Giả thuyết tiến hóa coi “sử dụng hoặc mất” là một trong những động lực của sự tiến hóa, cho rằng những thứ vô dụng sẽ mất khả năng cạnh tranh và sẽ thoái hóa hoặc bị đào thải.
Tuy nhiên, kích thước của cơ quan không nhất thiết sẽ trực tiếp tương ứng với độ mạnh yếu về chức năng. Những chức năng thoái hóa mà mọi người vẫn nghĩ không hẳn là vô dụng.
Ví dụ, nếu con người thực sự tiến hóa từ loài khỉ, thì bộ lông trên da khỉ có thể giữ ấm, vậy tại sao nó lại bị loại bỏ? Tại sao con người cần mọc tóc? Từ quan điểm làm thế nào để có lợi hơn cho sự sinh tồn, dường như tóc không hề có công dụng lớn hơn lông mao, vậy tại sao con người lại phải mọc thêm tóc trong khi lông mao trên cơ thể đã “thoái hóa”?
3.1 Hậu quả sau khi cắt amidan
Amidan là mô bạch huyết bao gồm bốn phần: amidan khẩu cái, amidan lưỡi, amidan vòm và amidan eustachian, chúng cùng nhau tạo thành một vòng phòng thủ vững chắc được gọi là vòng Waldeyer [132]. Đây là tuyến phòng thủ đầu tiên của cổ họng, ngày đêm canh giữ “pháo đài” cổ họng chống lại vi khuẩn và virus do không khí và thức ăn mang vào.
Do amidan vòm có xu hướng nhỏ lại ở cuối thời thơ ấu và gần như biến mất hoàn toàn ở tuổi thiếu niên, nên y học hiện đại thường coi amidan là cơ quan thoái hóa, cho rằng nó vô dụng, một khi chúng bị viêm và sưng tấy nhiều lần thì nên làm phẫu thuật cắt bỏ.
Kỳ thực không phải vậy, amidan là một cơ quan miễn dịch, mặc dù có vẻ như một số bộ phận đã bị thu nhỏ lại, nhưng điều đó không có nghĩa là nó không có chức năng. Nghiên cứu khoa học hiện đại đã phát hiện, nếu cắt bỏ amidan sẽ có thể dẫn đến
một loạt bệnh kinh niên, làm tăng khả năng mắc bệnh nhiễm trùng và các bệnh khác trong cơ thể.
Vào năm 2018, tập san học thuật “JAMA Otolaryngology” đã công bố kết quả của một nghiên cứu theo dõi lâu dài đối với gần 1.2 triệu trẻ em trong vòng 10 đến 30 năm. Nghiên cứu cho thấy việc loại bỏ amidan hoặc amidan vòm trong thời thơ ấu có liên quan đến việc tăng đáng kể nguy cơ phát triển các bệnh về đường hô hấp, dị ứng và truyền nhiễm trong cuộc sống sau này. Cụ thể, những người đã cắt bỏ amidan có nguy cơ nhiễm trùng đường hô hấp trên tăng gần 300%; những người đã loại bỏ amidan vòm có nguy cơ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tăng hơn 100%, nguy cơ bị bệnh đường hô hấp trên và viêm kết mạc cũng tăng gần 100%. [133]
Một nghiên cứu của Đài Loan phân tích dữ liệu từ 1,300 bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ amidan và một nhóm đối chứng tương ứng gồm 2,600 người (những người không cắt bỏ amidan). Họ phát hiện rằng, những bệnh nhân cắt bỏ amidan có nguy cơ mắc hội chứng ruột kích thích cao gần gấp đôi so với những người không cắt amidan. [134]
Một nghiên cứu của Thụy Điển theo dõi hơn 80,000 người đã cắt bỏ amidan hoặc ruột thừa trước 20 tuổi, cho thấy họ có nguy cơ mắc bệnh tim cao hơn trong thời gian sau này, trong đó nguy cơ cao nhất là những người trải qua cả hai cuộc phẫu thuật. [135]
3.2 Chức năng độc đáo của tuyến tùng
Tuyến tùng hay còn gọi là thể tùng quả (pineal gland) nằm phía sau đồi thị, núp dưới cuống nối với đỉnh não thất 3. Nó phát triển rất nhanh trong thời thơ ấu, sau 20 tuổi, nó bắt đầu suy yếu về chức năng, sau đó vôi hóa và teo lại.
Tuy nhiên, tuyến tùng teo lại không có nghĩa là chức năng của nó tàn lụi hay thoái hóa. Người ta đã phát hiện tuyến tùng vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống nội tiết, thần kinh, thị giác, sinh sản và miễn dịch trong suốt cuộc đời của con người.
1. Tiết melatonin [136]: Tuyến tùng tiết ra melatonin, chất điều chỉnh đồng hồ sinh học và giấc ngủ. Chức năng của tuyến tùng có liên quan đến cảm nhận ánh sáng và nhịp điệu theo mùa. Tế bào thần kinh trong tuyến tùng có thể cảm nhận mức độ ánh sáng trong môi trường, vì vậy chúng có thể giúp điều chỉnh mức độ nhạy cảm của cơ thể với ánh sáng.
2. Liên quan đến hiệu ứng nhận thức ánh sáng [137]: Thông tin nhận thức ánh sáng được đưa đến tuyến tùng thông qua con đường đa dây thần kinh phức tạp bắt đầu từ võng mạc. Giữa tuyến tùng, habenula (bộ phận hãm cuống tuyến tùng) và võng mạc có mối liên kết với nhau.
3. Ảnh hưởng đến tuyến sinh dục: Tuyến tùng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của cơ thể con người bằng cách điều chỉnh việc tiết hormone giới tính.
4. Ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch: Tuyến tùng có thể ảnh hưởng đến chức năng của tế bào lympho T.
Bệnh nhân có khối u tuyến tùng thường có biểu hiện tê liệt hướng nhìn lên trên. Việc cắt bỏ khối u tuyến tùng đã được thực hiện ở những bệnh nhân như vậy, mặc dù bệnh nhân có xu hướng cải thiện các triệu chứng nhìn lên sau phẫu thuật, nhưng vẫn có sự suy giảm thị lực lâu dài một cách rõ ràng, đặc biệt là rối loạn hội tụ phức tạp và rối loạn điều tiết. [138]
3.3 Tuyến ức có thực sự bị teo lại không?
Tuyến ức nằm ở phần trước của trung thất trên và phía sau xương ức, được chia thành hai thùy trái và phải, có dạng một dải phẳng dài, hai thùy được nối với nhau bằng mô liên kết. Là cơ quan miễn dịch trung ương, tuyến ức chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống miễn dịch của con người và có một vai trò vô cùng quan trọng. [139] Nó là “đại bản doanh” cho tế bào lympho T phát triển và biệt hóa.
Tuy nhiên, do vào thời thơ ấu tuyến ức hoạt động rất tích cực, đạt đến đỉnh điểm ở tuổi thiếu niên, sau đó dần dần thu nhỏ lại, nên tuyến ức cũng đã bị các nhà tiến hóa xem là cơ quan thoái hóa sau khi con người tiến hóa từ động vật, cho rằng nó không liên quan gì đến cơ thể con người và cắt bỏ cũng không có hại gì.
Nghiên cứu khoa học hiện đại đã phát hiện tuyến ức kiêm cả chức năng nội tiết. Tuyến ức không chỉ là cơ quan miễn dịch và tuyến nội tiết, mà còn có mối liên hệ hai chiều với hệ thần kinh nội tiết, hơn nữa tuyến ức còn là “đồng hồ thọ mệnh” của con người, có liên quan mật thiết đến độ dài tuổi thọ. [140]
Tây y đôi khi sẽ thực hiện phẫu thuật cắt bỏ tuyến ức trên những bệnh nhân mắc bệnh nhược cơ (một bệnh thần kinh cơ). Một nghiên cứu cho thấy phẫu thuật cắt bỏ tuyến ức có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tự miễn ở những bệnh nhân bị bệnh nhược cơ. [141]
Nói tóm lại, sự thoái hóa về hình dạng của các cơ quan này thực chất chỉ là quy luật trong quá trình phát triển của chúng, không phải là thể hiện của sự thoái hóa chức năng. Thuyết “sử dụng hoặc mất” của Lamarck là sai lầm, Darwin đã dùng nó để phát triển ra “giả thuyết tiến hóa,” việc này chính là sai càng thêm sai.
Con người có ngũ tạng câu toàn, mỗi cơ quan trong cơ thể con người đều hữu dụng. Chúng đã tồn tại, thì tất có tính hợp lý của chúng, chúng ta không thể nói một cách đơn giản rằng cơ quan nào đó hữu dụng và cơ quan nào đó vô dụng. Cơ thể con người là sự thống nhất và hòa điệu của các hệ thống cơ quan khác nhau, vì vậy những ai dự định loại bỏ cơ quan nào đó trên cơ thể thì nên suy nghĩ cẩn thận.
Tài liệu tham khảo:
- Darwin, Charles. On the origin of species by means of natural selection, or, The preservation of favoured races in the struggle for life . London: J. Murray, 1859.https://www.vliz.be/docs/Zeecijfers/Origin_of_Species.pdf;http://darwin-online.org.uk/content/search-results?freetext=the%20eye%20with%20all%20its%20inimitable%20contrivances
- Richard Goldschmidt Quotes.https://www.azquotes.com/author/23446-Richard_Goldschmidt#:~:text=Darwin’s%20theory%20of%20natural%20selection,it%20has%20been%20universally%20accepted.&text=It’s%20impossible%20by%20micro%2Dmutation%20to%20form%20any%20new%20species.&text=The%20facts%20of%20microevolution%20%5Bchange,from%20one%20species%20to%20another%5D
- Melinda Danowitz, Aleksandr Vasilyev, Victoria Kortlandt and Nikos Solounias(2015). Fossil evidence and stages of elongation of the Giraffa camelopardalis. Royal society open science https://royalsocietypublishing.org/doi/10.1098/rsos.150393
- Simmons, R. E., & Scheepers, L. (1996). Winning by a neck: sexual selection in the evolution of giraffe. The American Naturalist, 148(5), 771–786.https://www.jstor.org/stable/2463405; https://sci-hub.st/https://www.jstor.org/stable/2463405
- Wang, S. Q., Ye, J., Meng, J., Li, C., Costeur, L., Mennecart, B., Zhang, C., Zhang, J., Aiglstorfer, M., Wang, Y., Wu, Y., Wu, W. Y., & Deng, T. (2022). Sexual selection promotes giraffoid head-neck evolution and ecological adaptation. Science (New York, N.Y.), 376(6597), eabl8316.https://doi.org/10.1126/science.abl8316; https://www.science.org/doi/10.1126/science.abl8316
- Williams E. M. (2016). Giraffe Stature and Neck Elongation: Vigilance as an Evolutionary Mechanism. Biology, 5(3), 35.https://doi.org/10.3390/biology5030035
- Rosen G. (1977). Rudolf Virchow and Neanderthal man. The American journal of surgical pathology, 1(2), 183–187.https://doi.org/10.1097/00000478-197706000-00012
- Petruzzello, Melissa. “Asa Gray: The Father of American Botany”. Encyclopedia Britannica, 9 Jan. 2017, https://www.britannica.com/story/asa-gray-the-father-of-american-botany. Accessed 30 June 2023.
- Correspondence: The correspondence of Charles Darwin. Edited by Frederick Burkhardt et al. 29 vols to date. Cambridge: Cambridge University Press. 1985–.https://www.darwinproject.ac.uk/letter/DCP-LETT-2701.xml. Accessed on June 30, 2023.
- Darwin, Charles. On the origin of species by means of natural selection, or, The preservation of favoured races in the struggle for life . London: J. Murray, 1859.https://www.vliz.be/docs/Zeecijfers/Origin_of_Species.pdf;http://darwin-online.org.uk/content/search-results?freetext=the%20eye%20with%20all%20its%20inimitable%20contrivances
- Ferrara, M., Lugano, G., Sandinha, M. T., Kearns, V. R., Geraghty, B., & Steel, D. H. (2021). Biomechanical properties of retina and choroid: A comprehensive review of techniques and translational relevance. Eye, 35(7), 1818-1832.https://doi.org/10.1038/s41433-021-01437-w
- Yang, S., Zhou, J., & Li, D. (2021). Functions and Diseases of the Retinal Pigment Epithelium. Frontiers in Pharmacology, 12.https://doi.org/10.3389/fphar.2021.727870
- Purves D, Augustine GJ, Fitzpatrick D, et al., editors. Neuroscience. 2nd edition. Sunderland (MA): Sinauer Associates; 2001. Anatomical Distribution of Rods and Cones. Available from: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK10848/
- Purves D, Augustine GJ, Fitzpatrick D, et al., editors. Neuroscience. 2nd edition. Sunderland (MA): Sinauer Associates; 2001. Phototransduction. Available from: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK10806/
- Behe, Michael J., 1952-. (2006). Darwin’s black box : the biochemical challenge to evolution. New York :Free Press, https://www.difa3iat.com/wp-content/uploads/2014/08/Behe_Michael_J_Darwins_Black_Box_The_BiochemicaBookZZ.org_.pdf
- Darwin, Charles. On the origin of species by means of natural selection, or, The preservation of favoured races in the struggle for life . London: J. Murray, 1859.https://www.vliz.be/docs/Zeecijfers/Origin_of_Species.pdf
- Behe, Michael J., 1952-. (2006). Darwin’s black box : the biochemical challenge to evolution. New York :Free Press, P187: https://www.difa3iat.com/wp-content/uploads/2014/08/Behe_Michael_J_Darwins_Black_Box_The_BiochemicaBookZZ.org_.pdf
- Carl Wieland and Don Batten. An interview with leading Australian molecular biologist and microbiologist Ian Macreadie.https://creation.com/creation-in-the-research-lab
- Meegalla N, Downs BW. Anatomy, Head and Neck, Palatine Tonsil (Faucial Tonsils) [Updated 2022 Jun 11]. In: StatPearls [Internet]. Treasure Island (FL): StatPearls Publishing; 2023 Jan-. Available from: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK538296/
- Byars SG, Stearns SC, Boomsma JJ. Association of Long-Term Risk of Respiratory, Allergic, and Infectious Diseases With Removal of Adenoids and Tonsils in Childhood. JAMA Otolaryngol Head Neck Surg. 2018;144(7):594–603. doi:10.1001/jamaoto.2018.0614
- Wu, M. C., Ma, K. S., Wang, Y. H., & Wei, J. C. (2020). Impact of tonsillectomy on irritable bowel syndrome: A nationwide population-based cohort study. PloS one, 15(9), e0238242.https://doi.org/10.1371/journal.pone.0238242
- Janszky, I., Mukamal, K. J., Dalman, C., Hammar, N., & Ahnve, S. (2011). Childhood appendectomy, tonsillectomy, and risk for premature acute myocardial infarction—A nationwide population-based cohort study. European Heart Journal, 32(18), 2290-2296.https://doi.org/10.1093/eurheartj/ehr137
- Arendt J, Aulinas A. Physiology of the Pineal Gland and Melatonin. [Updated 2022 Oct 30]. In: Feingold KR, Anawalt B, Blackman MR, et al., editors. Endotext [Internet]. South Dartmouth (MA): MDText.com, Inc.; 2000-. Available from: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK550972/
- Gheban, B. A., Rosca, I. A., & Crisan, M. (2019). The morphological and functional characteristics of the pineal gland. Medicine and pharmacy reports, 92(3), 226–234.https://doi.org/10.15386/mpr-1235
- Hart, M. G., Sarkies, N. J., Santarius, T., & Kirollos, R. W. (2013). Ophthalmological outcome after resection of tumors based on the pineal gland. Journal of neurosurgery, 119(2), 420–426.https://doi.org/10.3171/2013.3.JNS122137
- Remien K, Jan A. Anatomy, Head and Neck, Thymus. [Updated 2022 Jul 25]. In: StatPearls [Internet]. Treasure Island (FL): StatPearls Publishing; 2023 Jan-. Available from: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK539748/
- Csaba G. (2016). The Immunoendocrine Thymus as a Pacemaker of Lifespan. Acta microbiologica et immunologica Hungarica, 63(2), 139–158.https://doi.org/10.1556/030.63.2016.2.1
- Gerli, R., Paganelli, R., Cossarizza, A., Muscat, C., Piccolo, G., Barbieri, D., Mariotti, S., Monti, D., Bistoni, O., Raiola, E., Venanzi, F. M., Bertotto, A., & Franceschi, C. (1999). Long-term immunologic effects of thymectomy in patients with myasthenia gravis. The Journal of allergy and clinical immunology, 103(5 Pt 1), 865–872.https://doi.org/10.1016/s0091-6749(99)70431-8
Nhóm biên soạn “Nhìn thấu Thuyết tiến hóa”
Tùy Phong biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ