Ngành sản xuất của Hoa Kỳ bùng nổ?
Chi tiêu để tăng năng lực sản xuất đã tăng lên một cách thông minh
Khi các công ty Hoa Kỳ suy nghĩ lại về việc sử dụng nguồn cung ứng ở Trung Quốc, có vẻ như một số công ty đã quyết định đưa hoạt động của họ về nước.
Từ năm 2022 và cho tới thời điểm hiện tại trong năm nay, đầu tư vào sản xuất trong nước của Hoa Kỳ đã tăng lên một cách thông minh. Một phần khoản chi tiêu này là nhằm mục đích tận dụng các khoản tài trợ, trợ cấp, và lợi thế về thuế của liên bang để sản xuất vi mạch bán dẫn trong nước, xe điện (EV), và các sản phẩm tương tự. Nhưng xu hướng này dường như cũng có được sự hậu thuẫn từ các nguyên tắc kinh tế căn bản khác bền vững hơn. Tuy nhiên, sự phục hồi này liên quan nhiều đến năng lực sản xuất và sản lượng hơn là về việc làm.
Năm ngoái (2022), Bộ Thương mại đã báo cáo rằng chi tiêu cho năng lực sản xuất mới tương đương với khoảng 108 tỷ USD, tăng 12.5% so với năm 2021. Năm 2023 chỉ có dữ liệu cho hai tháng, nhưng các dữ liệu này cho thấy sự tăng tốc rõ rệt so với tốc độ tăng trưởng của năm ngoái (2022). Mức chi tiêu hồi tháng Hai đã tăng 8.2% so với mức chi tiêu của tháng 12/2022. Năng lực sản xuất tổng thể đã chỉ tăng ở mức khiêm tốn 1.4% trong 12 tháng qua, nhưng mức tăng này cũng là hợp lý vì ngay cả một năm bội thu đầu tư mới cũng không làm thay đổi được nhiều năng lực tổng thể được hình thành trong năm. Tuy nhiên, xu hướng này rất đáng khích lệ, cho thấy sự tăng trưởng năng lực sản xuất sau hơn 10 năm suy giảm từ năm 2007 đến năm 2020.
Không nghi ngờ gì rằng một phần trong số những khoản đầu tư tăng đột biến này phản ánh Đạo luật CHIPS cho Hoa Kỳ và đạo luật được đặt tên kỳ lạ là Đạo luật Giảm Lạm Phát. Cả hai đạo luật này đều đã được thông qua vào năm ngoái (2022) và cung cấp các khoản trợ cấp cho việc xây dựng các cơ sở sản xuất chất bán dẫn trong nước. Ngay sau khi các đạo luật này được thông qua, Intel và Công ty Sản xuất Chất bán dẫn Đài Loan (TSMC) đều đã công bố ý định xây dựng các cơ sở mới ở Hoa Kỳ và tiền đã bắt đầu chảy vào. Intel đã lên kế hoạch cho cơ sở của mình từ trước khi luật được thông qua, nhưng chắc chắn chi tiêu đã tăng tốc theo sau các luật mới.
Mặc dù luật rõ ràng đã có tác dụng, nhưng không thể duy trì chi tiêu đầu tư với tốc độ tăng trưởng như hiện nay. Một khi các nhà sản xuất thay thế các hoạt động ở ngoại quốc và tích hợp vào các cơ sở hiện đang được lên kế hoạch cho những năm tới ở Hoa Kỳ, thì tốc độ tăng trưởng đầu tư sẽ chậm lại để bằng với tốc độ tăng trưởng của thị trường toàn cầu trong các lĩnh vực chất bán dẫn và xe điện. Không còn nghi ngờ gì nữa, vi mạch bán dẫn, xe điện, và pin sẽ phát triển với tốc độ nhanh hơn so với các hình thức sản xuất khác, nhưng sẽ không gì sánh được với tốc độ tăng trưởng đột biến hiện nay. Nhưng nếu luật sẽ có một tác động giảm dần, thì những ảnh hưởng khác, căn bản hơn sẽ duy trì sự mở rộng sản xuất trong nước của Hoa Kỳ.
Các cân nhắc về chuỗi cung ứng, chi phí năng lượng, và lãi suất tăng là ba trong số những yếu tố này. Câu chuyện về chuỗi cung ứng giờ đây đã trở nên quen thuộc. Trong thời kỳ đại dịch và trong quá trình phục hồi, khi các biện pháp kiểm dịch và phong tỏa được dỡ bỏ, các doanh nghiệp đã phát hiện ra rằng các nguồn cung ứng và việc tìm nguồn cung ứng ở ngoại quốc là kém tin cậy hơn họ từng nghĩ và chắc chắn là cần thiết. Do đó, một số công ty đã quyết định đưa một số hoặc toàn bộ các hoạt động của họ về nước. Xu hướng đó được củng cố khi chi phí năng lượng và độ tin cậy về năng lượng ở Trung Quốc và các nơi khác trở nên tệ hơn.
Cùng lúc, lãi suất tăng cũng đóng một vai trò trong xu hướng này. Bằng cách thúc đẩy người mua sỉ và lẻ giữ lượng hàng tồn kho của họ gọn gàng hơn, các nhà sản xuất sẽ đối diện với nhu cầu giao hàng nhanh hơn và thường xuyên hơn, điều có thể được đáp ứng tốt nhờ các cơ sở sản xuất gần đó.
Chênh lệch tiền lương đặc biệt ảnh hưởng đến phương trình sản xuất này. Trong nhiều năm, nhân công giá rẻ, đáng tin cậy ở Trung Quốc và các nơi khác ở châu Á đã khiến các doanh nghiệp Hoa Kỳ chấp nhận rủi ro về các tuyến đường cung cấp dài và những ẩn số khác để xây dựng và tìm nguồn cung ứng ở Trung Quốc. Sự khác biệt về tiền lương chắc chắn đã là một yếu tố hấp dẫn. Năm 2000, ngay sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), mức lương trung bình của Hoa Kỳ cao gấp 33 lần mức lương trung bình ở Trung Quốc. Nhưng khi nền kinh tế Trung Quốc dần dần phát triển, thì tiền lương ở đó đã bắt đầu bắt kịp mức lương ở Hoa Kỳ. Vào lần thống kê mới đây nhất, mức lương của người Mỹ cao gấp khoảng 6.5 lần so với mức lương của người Trung Quốc ở vị trí công việc tương đương, vốn vẫn là một khoản chênh lệch lớn nhưng đã không còn hấp dẫn như trước đây.
Trong khi đó, bằng cách làm giảm nhu cầu về nhân công, tự động hóa đã tiếp tục làm mất đi bất kỳ lợi thế về tiền lương nào mà Trung Quốc vẫn được hưởng. Nhận xét của Giám đốc điều hành Black and Decker, ông Donald Allan Jr., đã làm rõ hiệu ứng này một cách ngắn gọn. Ông so sánh các nhà máy của công ty mình ở Trung Quốc và Mexico với một nhà máy vừa mới xây xong ở North Carolina. Ông giải thích, các nhà máy ở Mexico và Trung Quốc cần 50 đến 75 công nhân trên dây chuyền, nhưng nhà máy ở North Carolina chỉ cần 10 đến 12 công nhân; và trong giai đoạn tự động hóa tiếp theo, nhà máy này sẽ chỉ cần hai hoặc ba công nhân.
Trong khi đó, có những dấu hiệu cho thấy rất nhiều tiền được chi nhằm mục đích tự động hóa chứ không phải là mở rộng sản xuất thô. Thống kê của Bộ Thương mại chỉ ra rằng chỉ có khoảng 15% tổng chi tiêu đầu tư kinh doanh là dành cho việc xây dựng các công trình kiến trúc. 85% còn lại dành cho thiết bị và tài sản trí tuệ — nói cách khác, tập trung vào các khoản đầu tư nâng cao tính hiệu quả, chẳng hạn như các hệ thống, robot, v.v.
Sản xuất của Hoa Kỳ sẽ phát triển, nhưng lĩnh vực này sẽ không sử dụng những con số từng đạt được trong quá khứ hay thậm chí là những con số từng sử dụng ở ngoại quốc cách đây không lâu.
Nhật Thăng biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times