Ngài George Washington trong thế tiến thoái lưỡng nan: Trở thành Cato hay Caesar
Người Mỹ vĩ đại đã đi qua con đường của La Mã như thế nào
Vào tháng 8/1755, George Washington được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh Lục quân Lục địa của Virginia. Tuy nhiên, một năm sau đó, vị chỉ huy 25 tuổi này đã nổi giận vì sự phớt lờ của hội đồng hoàng gia. Ông cũng cảm thấy cay đắng về cách cư xử của Anh quốc đối với những huynh đệ Virginia của ông, những người đã “hành động chân chính và hy sinh như những người lính.” Trung đoàn Virginia là lực lượng đầu tiên tham gia vào cuộc chiến tranh chống Pháp và người Mỹ bản địa.
“Nỗ lực Phụng sự và Bảo vệ Tổ quốc của cậu phải đem lại niềm Vinh dự cho cậu, vì thế, hãy cầu nguyện đừng để bất kỳ Sự gián đoạn không thể tránh khỏi nào làm nản Trí của cậu đối với những Nỗ lực cậu đang theo đuổi,” ông George William Fairfax [người thân thiết với Washington] đã cảnh báo trong một lá thư gửi cho ông vào tháng 4/1756. “Sức khỏe tốt và sự may mắn của cậu là điều đáng được nâng ly chúc mừng tại mỗi bàn tiệc. Trong những người La Mã, Lời tán dương chung và Sự kính trọng công khai như vậy là chỉ dành cho những vị Thủ lĩnh được quý trọng với niềm Vinh dự lớn lao và được công nhận đầy cảm ân.”
Ngài Washington, người từng tham gia mở màn cuộc chiến tại Jumonville, không ngừng mạo hiểm mạng sống của mình cho Anh quốc và những người đi khai hoang [thực dân]. Trong suốt Trận Chiến Monongahela, hai chú ngựa của ông bị bắn và có bốn lỗ đạn trên mũ và đồng phục của ông. Vào cuối năm 1758, khi cuộc chiến vẫn còn vài năm mới kết thúc, ông vẫn sống sót sau các trận đánh, bệnh đậu mùa, sốt rét, bệnh lỵ và viêm màng phổi, và rồi chỉ huy Washington đã từ chức. Tinh thần kinh doanh của ông lớn hơn đam mê quân sự, nhưng theo nhà sử học Ron Chernow, ngài Washington “chất đầy cảm giác bất bình mạnh mẽ, điều châm ngòi cho cơn thịnh nộ của ông đối với Anh quốc sau này.”
Những vị thủ lĩnh La Mã
Nhà chính trị Cato Trẻ và tướng Julius Caesar đã có cuộc đối đầu đầu tiên của họ vào năm 63 trước Công nguyên khi tranh luận về những cáo buộc trong Âm mưu của Catiline ― một âm mưu lật đổ nền cộng hòa, do người vừa bị thua trong cuộc bầu cử quan chấp chính lần thứ hai là nhà quý tộc Lucius Sergius Catiline khởi xướng. Cato và Caesar tranh luận ở Viện nguyên lão xem có nên bỏ qua các quy trình tố tụng theo hiến pháp và xử tử những kẻ chủ mưu, gồm nhiều người trong viện nguyên lão [thượng viện], hay nên tuân thủ hiến pháp giữ mạng sống cho họ; nếu họ có tội sau khi điều tra thì kết án tù chung thân và tịch biên tài sản của họ. Ban đầu, Viện nguyên lão đồng ý với đề nghị của Caesar về việc tuân theo hiến pháp, nhưng sự phản đối của Cato đã giành chiến thắng.
Thật khó để nói quyết định nào là đúng. Kết quả sau các vụ hành quyết và sự thất bại của [âm mưu] Catiline là những biến động chính trị và những giao dịch phía sau hậu trường dẫn đến một cuộc nội chiến, cái chết của Cato, và chế độ độc tài của Caesar vào năm 46 trước Công nguyên. Dù Caesar bị ám sát vào năm 44 trước Công nguyên, nhưng nền cộng hòa đã không thể được cứu vãn và sớm lùi vào quá khứ, nhường chỗ cho sự cai trị của các hoàng đế.
Thời đại của Julius Caesar là một trong những bi kịch vĩ đại nhất của lịch sử. Một trong những tác phẩm bi kịch của thi hào Shakespeare là dựa trên các sự kiện xoay quanh vụ ám sát Caesar. Những người dưới thời kỳ thuộc địa ở Mỹ, trong đó có ngài Washington, đã rất quen thuộc với Shakespeare ― dù sao thì, họ cũng đều là người Anh. Có một nhà viết kịch người Anh khác mà Washington rất thích: Joseph Addison. Vở kịch “Cato, a Tragedy” (Cato, một bi kịch) của Addison được công diễn lần đầu ở thủ đô London năm 1713, đã gây tiếng vang tại Anh quốc và lan sang các nước thuộc địa. Cato đã từng là một người cộng hòa trung thành; phiên bản kịch của tác giả Addison thậm chí còn hơn thế nữa. Vở kịch là nguồn cảm hứng cho ngài Washington mà ông thường xuyên dẫn chiếu đến.
Ngài Washington hiểu rõ các phiên bản đời thực và hư cấu [trong kịch] của cả Cato và Caesar. Vua George II qua đời hai năm sau khi Washington từ chức, lựa chọn để trở thành một trong hai vị thủ lĩnh La Mã vĩ đại sớm mở ra cho ngài Washington.
Người đàn ông của các trận địa: Trang trại và chiến trường
Chỉ vài tuần sau khi từ chức, ngài Washington kết hôn với bà Martha Custis. Cuộc sống điền viên của ông ngày càng rộng mở. Ông có nhiều ý tưởng kinh doanh và đầu cơ đất đai. Từ chiến trường đẫm máu, ông đã chuyển sang những vùng đất phì nhiêu, đổi thuốc súng lấy thuốc lá.
Khi cuộc chiến kết thúc, nước Pháp đã mất các vùng đất phía tây sông Mississippi, trừ thành phố New Orleans. Vào tháng 9/1763, ngài Washington và 19 người khác thành lập Công ty địa ốc Mississippi với hy vọng sở hữu 2.5 triệu mẫu Anh (khoảng 10,000 km²) ở thung lũng Ohio. Tuy nhiên, vào tháng sau đó, Vua George III ban hành một sắc lệnh hoàng gia cấm các thực dân Anh mở rộng về phía tây dãy núi Appalachian. Các vấn đề rắc rối với Chế độ quân chủ Anh sớm chồng chất.
Mỗi năm trôi qua, nhằm trả hết các khoản nợ chiến tranh to lớn của mình, chính phủ Anh tiếp tục ban hành các loại thuế mới lên các thuộc địa. Những người thuộc địa ít phản đối việc bị đánh thuế hơn so với việc họ bị đánh thuế mà không có đại diện. Các quyền của họ với tư cách là công dân Anh đã bị phớt lờ, mặc dù đôi khi sự phản đối của họ dẫn đến việc chế độ quân chủ Anh thay đổi hướng đi. Trong thập niên tiếp theo, nhiều đạo luật hơn được thông qua, xen kẽ với những cuộc bạo loạn như Vụ thảm sát Boston năm 1770 và Tiệc trà Boston năm 1773. Cuối cùng, giọt nước làm tràn ly chính là Đạo luật Đóng quân năm 1774, một phiên bản mang tính xâm phạm nhiều hơn của đạo luật tương tự được thông qua vào năm 1765. Đạo luật này cho phép binh lính Anh được lưu trú trong các tư gia và các địa điểm kinh doanh, như quán rượu và nhà trọ.
Những lạm dụng bất công từ một cường quốc lớn nhất thế giới đã đi quá xa. Vào ngày 18/07/1774, ngài Washington đã họp mặt với các nhà lãnh đạo khác của Quận Fairfax, Virginia, yêu cầu các quyền lợi của họ được khôi phục như của công dân Anh và “Hậu duệ của những kẻ chinh phục, chứ không phải của những kẻ bị chinh phục.” Các Nghị quyết Fairfax, được ông và ông George Mason soạn thảo, là sự phản đối toàn diện đối với Chế độ quân chủ Anh và Quốc hội. Chưa đầy hai tháng sau đó, 56 đại biểu đến từ 12 trong số 13 thuộc địa đã tề tựu tại Philadelphia cho Đệ nhất Quốc hội Lục địa. Sau hơn một thập niên mà những người đi chinh phục bị ruồng bỏ, lạm dụng, và hạ bệ “dưới chế độ độc tài tuyệt đối,” thì cuộc xung đột dường như không thể tránh khỏi. Điều tất yếu đã diễn ra vào ngày 19/04/1775, với các trận đánh Lexington và Concord ở Massachusetts. Thành ngữ “băng qua Rubicon” của Cesar đã trở thành hiện thực. Chính xác hai tháng sau đó, Washington được ủy nhiệm dẫn đầu Quân đội Liên lục địa băng qua dòng sông.
Cato và Caesar
Có thể đưa ra những lập luận để bảo vệ cả chính trị gia Cato và tướng Caesar. Hành động của họ đều đáng khâm phục theo cách riêng của mình. Mặc dù Cato đã chọn dùng động cơ cá nhân hơn là hiến pháp trong vụ ‘Âm mưu của Catiline’, phần còn lại của cuộc đời ông đã dành cho việc duy trì nền cộng hòa và chấm dứt nạn tham nhũng chính trị. Cato hy vọng vẫn giữ nền cộng hòa trong bối cảnh đương thời, thuyết phục những vị nguyên lão kiềm chế nạn tham nhũng. Ngược lại, Caesar một mặt ủng hộ hiến pháp, nhưng rồi ông tin rằng cách duy nhất để làm trong sạch nền cộng hòa khỏi nạn tham nhũng là thông qua chế độ độc tài. Cato là người hùng của truyền thống La Mã. Caesar là người hùng của người dân La Mã. Cato lấy làm ân hận về Caesar; còn Caesar tôn trọng Cato.
Đối với Cato, Caesar là điềm báo của chế độ độc tài. Caesar đã xác nhận sự nghi ngờ đó vào ngày 10/01/49 trước Công nguyên, khi vượt qua sông Rubicon* cùng quân đội của mình và hành quân vào thành Rome. Nhìn lại quá khứ, hành động này đã châm ngòi cuộc nội chiến và đặt dấu chấm hết cho nền Cộng hòa La Mã.
Tướng Washington: Hội tụ cả Cato và Caesar
Chính sách nới lỏng vì lợi ích (salutary neglect) được chế độ quân chủ Anh thực thi trong 150 năm đã mang lại cho người Mỹ gốc Anh quyền tự do gần như vô song trên thế giới. Khi vị vua mới tuyên bố rõ rằng thời kỳ đó đã qua, ngài Washington là hiện thân những phẩm chất của cả Cato và Caesar. Ông tin, như ông Cato đã tin, rằng không có gì thiêng liêng và thiết thực hơn tự do. Và ông cũng tin, như Caesar đã tin, chính phủ hiện tại sắp đến ngày lụi tàn. Quan điểm kép này được phản ánh trong tuyên bố của ông rằng nước Mỹ “hoặc là đẫm máu hoặc là sống đời nô lệ.”
Tướng Washington rẽ lối khác như tiếng gọi của định mệnh. Ông khao khát đạt được vinh quang như các nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại trong quá khứ, ông đặt hàng những bức tượng bán thân của công tước Marlborough, Frederick II của nước Phổ, Hoàng tử Eugene của lãnh thổ Savoy, Vua Charles XII của Thụy Điển, Alexander Đại đế và tướng lĩnh Julius Caesar. Tuân theo trực giác về định mệnh, ông đã thể hiện khí chất bất khả chiến bại, điều này đã được tái khẳng định trong suốt mùa đông năm 1776–1777.
Sau khi chia đội quân của mình thành ba ngả vào Ngày Giáng Sinh, tướng Washington đã vượt sông Delaware để tiến vào Trenton, New Jersey, trong một trận bão tuyết và đánh bại quân Hessian mặc dù đã mất 2/3 quân số. Trong Trận chiến Princeton những ngày sau đó, tướng Washington cưỡi trên ngựa trắng của mình, tấn công quân địch trong phạm vi 30 yards với họ. Một sĩ quan mô tả rằng, quân đội Anh và quân lục địa đều nổ súng, khiến “tính mạng quan trọng của tướng Washington ngàn cân treo sợi tóc với hàng ngàn viên đạn tử thần bay quanh ông.”
Khi làn khói súng tan đi, Washington không hề hấn gì và không hề nao núng, hét lớn với đội quân của mình, “Ngày hôm nay là của chúng ta!” Những sự kiện kỳ diệu của hai trận chiến đó đã thu hút sự chú ý của thế giới đế quốc, khiến Vua Frederick Đại đế của nước Phổ tán dương những thành công của Washington và quân đội của ông tại Trenton và Princeton, nói rằng đó “là những thành tựu xuất sắc nhất mà biên niên sử quân đội ghi nhận”.
Tinh thần Caesar trong cánh buồm Washington chứng minh rằng họ là cơn gió chủ đạo. Tuy nhiên khi năm 1777 trôi qua, gió đó bắt đầu đổi hướng. Tướng Washington và quân đội của ông đã rơi vào tình trạng gần như bị đánh bại — chỉ cứu vãn được nhờ chiến thắng ngoạn mục tại Saratoga, mà không có sự tham gia của Washington. Co cụm trong vùng biên giới Thung lũng Forge (Pennsylvania) trong suốt mùa đông năm 1777-1778, vị tướng vĩ đại truyền cảm hứng cho binh lính của mình thông qua tính cách thứ hai của ông: Cato.
Với sự hiện diện của cả ông và phu nhân Martha, vở kịch “Cato: A Tragedy” (Cato: một Bi kịch) được biểu diễn trước quân đội. Quân đội Lục địa đã nếm trải cả chiến thắng và thất bại, nhưng cuộc chiến giành tự do của họ trong một thế giới “được tạo ra cho Caesar” sẽ còn tiếp tục trong nhiều năm nữa — theo lời thoại của Cato trong vở kịch của Addison,.
Lựa chọn sau cùng của tổng tư lệnh Washington
Với những hành động như tướng Caesar và ý chí như chính trị gia Cato, Washington đã từng bước dẫn dắt nước Mỹ tiến gần đến chiến thắng và độc lập. Tương tự như những khoảnh khắc ở trận Trenton và Princeton, Washington đã hóa thân thành tướng Caesar một lần cuối trong Trận Yorktown vào tháng Chín và tháng Mười năm 1781. Ông đích thân châm phát súng đầu tiên của loạt đại bác dài không ngừng. Tướng Charles Cornwallis đầu hàng, đánh dấu sự kết thúc của cuộc chiến, mặc dù Hiệp ước Paris không được ký kết cho đến tận hai năm sau đó. Khoảnh khắc ngài Washington chấp nhận sự đầu hàng của tướng Cornwallis đã được họa sĩ John Trumbull ghi lại với toàn bộ vinh quang — vinh quang của một người chinh phục.
Ngay sau đó, xuất hiện những tin đồn về hành động chính trị tiếp theo của ngài Washington. Ông đã tiến công vào quân Anh và giành chiến thắng. Liệu Mỹ quốc có phế truất một vị vua chỉ để lập một vị vua khác? Liệu ngài Washington có sử dụng quyền lực quân sự của mình để thiết lập một đế chế mới của bản thân, như tướng Caesar đã từng làm?
Đại tá Lewis Nicola đề nghị ý tưởng rằng tổng tư lệnh Washington sẽ trở thành vị vua đầu tiên của quốc gia non trẻ này. Hồi đáp của ngài Washington cho thấy ông đã bỏ lại nhân cách Caesar trên chiến trường Yorktown đẫm máu: “Nếu tôi không tự lừa dối bản thân về hiểu biết của mình, ông sẽ không tìm thấy một ai phản đối ý tưởng này hơn tôi … Nếu ông quan tâm đến đất nước, nghĩ cho bản thân hoặc hậu thế — hoặc tôn trọng tôi, … hãy bỏ những suy nghĩ này khỏi tâm trí của mình.”
Vào ngày 22/12/1783, Quốc hội đã tổ chức một bữa tiệc để tôn vinh ngài Washington. Buổi chiều hôm sau, ông đứng trước Quốc hội Lục địa và từ chức. “Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ được phó thác,” ngài Washington nói, “Tôi xin rút lui khỏi vũ đài cao cả này.” Bấy giờ, ánh quang huy của Cato không thể tỏa sáng rực rỡ hơn được nữa.
Họa sĩ Trumbull cũng đã nắm bắt được khoảnh khắc này, ông đã hồi tưởng:
“Tham vọng trần tục nơi đây thật sự cám dỗ mê hoặc! Được quân đội yêu mến, được nhân dân tôn kính, ai sẽ ở đó phản đối vị chỉ huy chiến thắng này nếu ông lựa chọn giữ lại quyền lực, thứ mà ông có trong suốt thời gian dài với toàn bộ sự đồng thuận? Những người như Caesar, Cromwell, Napoleon đã đầu hàng trước cám dỗ của ham muốn trần thế, và phản bội đất nước họ; nhưng ngài Washington khao khát vinh quang cao cả hơn, trường tồn hơn— vinh quang mà chỉ có đức hạnh mới có thể ban tặng, và không có quyền lực, nỗ lực hay thời gian có thể lấy đi hoặc làm lu mờ.”
Ở Mỹ quốc, việc ngài Washington từ chức có lẽ không gây ngạc nhiên. Tuy nhiên, ở bên kia Đại Tây Dương, quyết định này khơi dậy cả sự bối rối lẫn kính phục. Vua George III khá chắc chắn rằng tướng Washington sẽ hoàn toàn thay thế sự cai trị của ông. Khi họa sĩ lịch sử triều đình Benjamin West thông báo rằng Washington đã thực sự từ chức, vua George III đáp: “Nếu ông ta làm điều đó, ông ta sẽ là người vĩ đại nhất trên thế giới.”
Ngài Washington chẳng phải là người đàn ông vĩ đại nhất trên thế giới vì ông là một Caesar hay một Cato khác. Ông là người vĩ đại nhất vì ông là cả hai người họ, vận dụng hài hòa giữa hai sách lược để đánh bại kẻ thù và khơi nguồn cảm hứng cho quân đội của mình, chưa bao giờ vì tham vọng cá nhân.
Ghi chú tham khảo:
Marcus Porcius Cato Uticensis (95 TCN-46 TCN), thường được gọi là Cato Trẻ để phân biệt với ông cố là Cato Già, là chính trị gia trong những năm cuối của nền Cộng hòa La Mã. Ông được nhớ đến vì sự bền chí trong việc bảo vệ nền cộng hòa La Mã, đặc biệt là trong cuộc nội chiến lâu dài của ông chống lại Julius Caesar. Sau khi bị Julius Caesar đánh bại trong trận Thapsus, ông đã nhận lấy cái chết bằng cách tự sát.
Gaius Julius Caesar (100 TCN–44 TCN) là vị tướng và chính khách người La Mã. Là thành viên của Chế độ Đệ nhất Tam hùng, Caesar đã lãnh đạo quân đội La Mã trong cuộc Chiến tranh xứ Gallia trước khi đánh bại Pompey trong một cuộc nội chiến và cai trị Cộng hòa La Mã với tư cách là nhà độc tài từ năm 49 TCN cho đến khi bị ám sát vào năm 44 TCN. Ông đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện dẫn đến sự sụp đổ của Cộng hòa La Mã và sự trỗi dậy của Đế chế La Mã.
Diệu Linh biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ The Epoch Times