Lý do Trung Cộng không thể bán chiến cơ ra nước ngoài
Một người bạn của tôi, Richard Aboulafia – chuyên gia nổi tiếng trong ngành hàng không vũ trụ, gần đây đã đưa ra những lời nhận xét thế này đối với việc Trung Cộng không bán được chiến cơ ở nước ngoài:
“Kỷ lục bán hàng yếu kém này không liên quan gì đến bản thân chiếc chiến cơ. Trung Quốc đã đạt được những bước tiến lớn trong việc cải thiện cơ sở công nghệ hàng không vũ trụ thuộc sở hữu của nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực quân sự. Trung Quốc đã chế tạo ra những chiến cơ chất lượng cao, hoặc ít nhất có thể so sánh với một số lượng lớn chiến cơ mà Liên Xô cũ đã xuất khẩu thành công sang nhiều nước khác”.
Hơn nữa, vũ khí của Trung Quốc cũng tương đối rẻ, đáng tin cậy, và có rất ít vấn đề trong quá trình bán hàng.
Aboulafia tin rằng, lý do nằm ở chỗ các nước láng giềng của Trung Quốc “không thích Trung Cộng”.
Lấy chiến đấu cơ J-10 của Trung Quốc làm ví dụ. Đây là cái mà chúng tôi gọi là máy bay chiến đấu “thế hệ thứ tư trở lên”, được trang bị hệ thống radar tiên tiến, “buồng lái bằng kính”, với hệ thống điều khiển điện tử và thậm chí là có khả năng tàng hình ở mức độ nhất định. Nó có thể phóng tên lửa không đối không tầm xa và thậm chí có thể hoạt động như một chiếc chiến cơ tấn công mặt đất. Nó gần tương đương với một chiếc chiến cơ F-16 Fighting Falcon (Chim cắt huyền thoại) vốn đang được sử dụng rộng rãi trong hơn 20 Lực lượng Không quân trên khắp thế giới, và rất có thể còn rẻ hơn chiếc F-16 Fighting Falcon.
Chúng tôi đã cho rằng J-10 sẽ có khả năng cạnh tranh với các hãng sản xuất chiến cơ ở phương Tây. Tuy nhiên, Trung Cộng đã xuất khẩu được bao nhiêu chiến cơ loại này?
Zero. Không có. 1 chiếc cũng không.
Trên thực tế, trong vòng nhiều năm trở lại đây, Trung Cộng đã không thể xâm nhập vào lĩnh vực kinh doanh vũ khí trên thế giới mạnh mẽ như trước. 2/3 số vũ khí tiêu thụ mỗi năm của nó là được bán cho ba quốc gia: Pakistan, Bangladesh và Algeria. Ngoài ba quốc gia này, thị trường vũ khí lớn nhất sau đó của Trung Cộng là Phi Châu, nhưng các sản phẩm được bán ở đó đều là những sản phẩm cấp thấp.
Ngoài hiệu quả kinh tế hoặc quân sự ra, có rất nhiều lý do cho việc quyết định nên mua vũ khí từ quốc gia nào. Trong tình huống thông thường, một quốc gia mua vũ khí từ một quốc gia cụ thể là vì để củng cố quan hệ chính trị và quân sự với quốc gia cung cấp vũ khí, đặc biệt là các liên minh quân sự. Một nhà sản xuất trong ngành công nghiệp quốc phòng ở Hoa Kỳ từng nói đùa rằng: “Mỗi chiếc F-16 chúng tôi bán ra giống như tặng miễn phí cho Thủy quân lục chiến của Hoa Kỳ”.
Hoa Kỳ cũng như các quốc gia sản xuất vũ khí ở phương Tây khác như Anh quốc hoặc Pháp, đều có thể cung cấp các biện pháp bảo đảm an ninh cho khách hàng của họ và các biện pháp bảo vệ khác (nếu cần), trong khi Trung Quốc thì không. Trung Quốc vẫn chưa đạt được loại “quyền lực cứng” này, giống như Aboulafia đã nói, “Bắc Kinh thiếu sức hút với tư cách là một đối tác chiến lược”.
Đồng thời, Trung Quốc cũng thiếu “quyền lực mềm”, thậm chí có thể còn đang thụt lùi. Quyền lực mềm thường được định nghĩa là “sức hấp dẫn”: sử dụng các giá trị văn hóa, ngoại giao và chính trị để tăng sức hấp dẫn của một quốc gia đối với các quốc gia khác. Mục tiêu của Trung Cộng là thu hút các nước khác hợp tác với Bắc Kinh.
Tuy nhiên, quyền lực mềm đòi hỏi sự tin tưởng được vun đắp theo thời gian và được duy trì một cách cẩn thận. Để Trung Cộng có thể bán vũ khí, cũng có nghĩa là khách hàng phải cảm thấy rằng họ có thể tin tưởng vào các dịch vụ của Bắc Kinh, chẳng hạn như sửa chữa và bảo dưỡng vũ khí, cung cấp phụ tùng, huấn luyện và thậm chí là chuyển giao công nghệ.
Thách thức của quyền lực mềm còn là nó có thể biến mất nhanh chóng. Đây chính là cơ sở cho quan điểm của Aboulafia, rằng việc các quốc gia không thích Trung Cộng đã ảnh hưởng đến việc mua bán vũ khí.
Không chỉ trong việc mua bán vũ khí, rất nhiều quốc gia còn khó tin tưởng hoặc hợp tác với Trung Cộng trong nhiều lĩnh vực. Vào cuối những năm 1990 – đầu những năm 2000, “phong trào nụ cười” theo định hướng quyền lực mềm của Trung Cộng đã mang lại những khoản cổ tức khổng lồ. Như tạp chí The Economist đã chỉ ra vào năm 2007, khoản tài trợ hào phóng của Trung Cộng trong cuộc khủng hoảng tài chính Á châu 1997-1998 đã để lại được ấn tượng tốt. “Các khoản viện trợ và cho vay của Trung Quốc đã giúp các nước khác xoa dịu cuộc khủng hoảng”, hình thức hỗ trợ này đã đặc biệt nâng cao vị thế của Bắc Kinh ở Đông Nam Á. Singapore và các nước khác cũng hỗ trợ Bắc Kinh, họ rất vui được bắt tay với Trung Cộng để xoa dịu cuộc khủng hoảng. Bài báo tiếp tục nói rằng, kết quả là “Trung Cộng đã nếm trải vị ngọt của việc được tôn trọng”.
Ngay cả khi Bắc Kinh đang cố gắng nắm bắt những cơ hội để có được năng lực và vị thế của một cường quốc (“sự trỗi dậy hòa bình”), thì nỗ lực có chủ ý nhằm thể hiện một hình ảnh tử tế hơn, dịu dàng hơn trước toàn cầu này đã rất thành công. Về mặt thúc đẩy xuất khẩu vũ khí, doanh thu bán vũ khí ra nước ngoài hàng năm của Trung Cộng đã tăng từ 295 triệu USD vào năm 2000 lên hơn 2 tỷ USD vào năm 2013 (cũng là năm đầu tiên Tập Cận Bình làm Tổng bí thư).
Như chúng ta đã biết, cách tiếp cận “ôn hòa” này đã được thay thế bằng hành vi hiếu chiến mới của Bắc Kinh, và kể từ đó, lượng vũ khí xuất khẩu của Trung Cộng đã giảm từ 25% đến 40%.
Quan trọng hơn là, hành vi hiếu chiến của Bắc Kinh đã gây ra những phản ứng dữ dội. Đặc biệt là ở Hoa Kỳ, nó đã sinh ra một liên minh chính trị rộng lớn đối kháng lại Trung Cộng. Thái độ cứng rắn của ông Trump đối với Bắc Kinh đã được chính quyền Biden tiếp tục chọn dùng.
Tại Quốc hội Hoa Kỳ, cả hai đảng đều ủng hộ Dự luật Cạnh tranh Chiến lược (Strategic Competition Act), dự luật này nhắm trực tiếp vào các mối đe dọa về kỹ thuật, kinh tế và quân sự từ Trung Cộng, đặc biệt là tìm cách để “chống lại ảnh hưởng xấu xa của Trung Cộng trên phạm vi toàn cầu”.
Ngoài ra, phần lớn các nhà quan sát phương Tây đã có ấn tượng tiêu cực hơn về Trung Cộng, bởi vì rất nhiều con “bồ câu” trước đây đã biến thành diều hâu.
Một bài báo gần đây trên tờ The Economist dẫn lời một cựu quan chức đã cố vấn cho một số tổng thống về các vấn đề Trung Quốc rằng, “Ngày nay, không cần bất kỳ can đảm nào để trở thành diều hâu cho Trung Quốc, để không phải là một trong số đó mới cần đến can đảm”.
Đồng thời, những người kêu gọi tiếp tục bắt tay với Trung Cộng ngày càng lộ rõ sự ngây thơ. Bắc Kinh đang ngày càng được coi là nhân tố chủ yếu gây căng thẳng và mất an ninh ở Á Châu – Thái Bình Dương (và phần còn lại của thế giới), các quốc gia trong khu vực không hợp tác với nó, mà né tránh hoặc đối kháng lại.
Các quốc gia trên thế giới có thể sẽ vẫn phải tiếp tục giao thiệp với Trung Cộng, bởi vì Trung Quốc quá lớn để có thể bị bỏ qua. Tuy nhiên, những quốc gia giao thiệp với Bắc Kinh trong tương lai có thể sẽ thận trọng và hoài nghi hơn nhiều.
Bài gốc: “Why China Could Not Sell Their Fighter Jets Overseas” được đăng trên The Epoch Times tiếng Anh
Thông tin tóm tắt về tác giả:
Richard A. Bitzinger là một chuyên gia phân tích độc lập về các vấn đề an ninh trên thế giới. Ông từng là nghiên cứu viên cấp cao trong dự án chuyển đổi quân sự của Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam (RSIS) thuộc Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore. Ông cũng từng phục vụ trong chính phủ Hoa Kỳ và các tổ chức tư vấn khác nhau. Nghiên cứu của ông tập trung vào các vấn đề an ninh và quốc phòng tại khu vực Á Châu – Thái Bình Dương, bao gồm sự gia tăng sức mạnh quân sự của Trung Cộng, cũng như việc hiện đại hóa quân đội và phân tán vũ khí trong khu vực này.
Bài viết này chỉ thể hiện quan điểm của tác giả, và không nhất định thể hiện quan điểm của The Epoch Times.
Bài viết của tác giả Richard A. Bitzinger
Do Vân Xuyên, Cao Tĩnh biên tập
Xuân Hoàng biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc trên The Epoch Times
Xem thêm: