Khi tai họa phát sinh, các bậc Đế Vương thời Tiên Tần đã làm gì để tiêu trừ?
Trong mười mấy năm qua, đủ loại tai họa liên tiếp xuất hiện ở Trung Quốc với tần suất ngày càng cao. Gần đây nhất là nạn lũ lụt, động đất, dị tượng bầu trời đỏ như máu cùng với nhiều dị tượng khác phát sinh ở vùng Hoa Bắc, Đông Bắc … Những tai họa này đều cho thấy sự thịnh nộ và cảnh cáo của Thiên Thượng. Vì sao lại nói như vậy? Bởi vì người Trung Quốc xưa giảng rằng “Thiên nhân hợp nhất,” bất kỳ dị tượng nào cũng đều có lời cảnh báo đằng sau nó.
Trong “Chu Dịch – Hệ Từ Thượng” có câu nói rằng: “Thiên thùy tượng, kiến hung cát” (Trời giáng thiên tượng, từ đó có thể biết được điềm dữ hay điềm lành). Trong học thuyết “Thiên nhân cảm ứng” của Đổng Trọng Thư nhà Tây Hán cũng cho rằng, Thiên – nhân có sự tương thông lẫn nhau, ban thưởng hay hình phạt của ông Trời là căn cứ trên hành vi tốt hay xấu của con người mà thực thi. Thiên Thượng dùng điềm lành và tai họa để biểu thị sự tán thưởng hay khiển trách đối với người thống trị, lấy điều đó để chỉ đạo hoạt động của con người thế gian. Đổng Trọng Thư cũng đặc biệt nhấn mạnh tác dụng cảnh báo của dị tượng thiên tai, cho rằng mọi tai họa dị thường của giới tự nhiên là do sai lầm của người cầm quyền dẫn đến.
Vậy khi tai họa phát sinh, các bậc Đế vương xưa đã ứng phó như thế nào? Hôm nay chúng ta sẽ nói về phương pháp của ba vị Quân vương thời kỳ Tiên Tần.
Vua Thành Thang nhà Thương tu đức trừ tai họa
Người lập nên triều Thương là Thành Thang. Tổ tiên của Thành Thang là Tiết, vì giúp Đại Vũ trị thủy lập được công, nên sau đó Tiết được phong ấp tại đất Thương và ban cho họ “Tử” (子). Tiết đã làm rất nhiều việc tốt cho bách tính ở đất Thương, giúp cho cuộc sống dân chúng an định. Đến khi Thành Thang kế vị, ông không chỉ kính Thiên tuân mệnh, cúng tế Thần linh, mà còn trọng dụng Y Doãn và các hiền thần khác.
Thành Thang là một người vô cùng hiền đức, câu thành ngữ “võng khai nhất diện” chính là có liên quan đến ông. Tương truyền một ngày nọ, khi ông đang đi săn thú thì nhìn thấy một cánh đồng được giăng lưới tứ phía; người giăng lưới cầu nguyện rằng: “Cầu cho cầm thú từ bốn phương tám hướng đều lọt vào lưới của ta!” Sau khi Thành Thang nghe xong câu này, bèn nói: “Nếu ngươi làm như vậy thì toàn bộ cầm thú sẽ bị bắt sạch mất!”
Vì vậy, ông hạ lệnh tháo bỏ ba mặt lưới, rồi bảo người giăng lưới cầu nguyện rằng: “Muốn đi bên trái, thì đi bên trái; muốn chạy bên phải, thì chạy bên phải. Con nào nếu không tuân theo mệnh, thì tiến vào lưới của ta.”. Chư hầu nghe xong chuyện này, đều nói: “Sự nhân đức của Thành Thang thực sự là đã đạt đến chí cực, ngay cả cầm thú cũng đều có thể nhận được ân huệ của ông.” Vào thời đó có 36 nước đã quy phục ông.
Về sau, dưới sự phụ tá của Y Doãn, Thành Thang đã đánh bại quân đội nhà Hạ. Nhà Hạ diệt vong, nhà Thương ứng theo mệnh Trời được lập nên. Thành Thang được gọi là “Thương Thang.” Sau khi lên ngôi Thiên Tử, ông khuyên răn chư hầu phải kính sợ Thiên Thượng, tu hành đức chính, mưu lợi cho dân.
Một hôm, trong cung đình vua Thương bỗng mọc lên một cây lúa kỳ lạ, mới vừa lúc xế chiều nảy mầm, đến rạng sáng hôm sau thì đã to đến hai cánh tay ôm. Các triều thần đều cho rằng đó là điềm không may, nên thỉnh cầu cho người chiêm bốc gieo quẻ bói xem nguyên nhân xuất hiện của cây lúa.
Thương Thang ra lệnh cho quan phụ trách chiêm bốc lui xuống, đồng thời nói với các quan đại thần khác rằng: “Ta nghe nói, sự xuất hiện của vật cát tường là điềm báo phúc lành sắp đến, nhưng gặp điềm lành như vậy mà làm việc bất thiện, thì phúc lành sẽ không đến nữa. Việc quái dị xuất hiện là điềm báo của tai họa, nhưng gặp điềm xấu như vậy mà làm việc thiện, thì tai họa sẽ không giáng xuống nữa.”
Vì vậy, Thương Thang càng thêm chú trọng đến việc tu dưỡng đức hạnh. Mỗi ngày, ông thượng triều sớm, hạ triều rất muộn, siêng năng cần mẫn giải quyết công việc triều chính. Ông còn đích thân đến thăm hỏi những người bị bệnh, phúng viếng người mất, lắng nghe tiếng nói của trăm họ, an ủi động viên bách tính.
Thương Thang thực hiện như vậy mới chỉ được ba ngày, cây lúa kỳ lạ trong cung đình đã không còn nữa. Bởi vậy có câu rằng: “Họa hề phúc chi sở ỷ, phúc hề họa chi sở phục” (Trong họa đã có nhân phúc, trong phúc đã có mầm họa). Đây là đạo lý mà chỉ Thánh nhân mới có thể nhận thức được.
Chu Văn Vương trọng đức hành thiện, tránh được tai họa
Sau khi nhà Thương diệt vong, Chu Vũ Vương kiến lập nên triều Chu. Ông truy phong phụ thân của mình là Tây Bá Hầu Cơ Xương làm Văn Vương. Dưới thời nhà Thương, Tây Bá Hầu Cơ Xương là thủ lĩnh chư hầu ở vùng phía Tây. Khi Cơ Xương tại vị, ông đã kế thừa đức chính của tổ tiên, toàn tâm toàn ý thi hành nhân nghĩa, kính trọng người già, từ ái với người trẻ, chiêu hiền đãi sĩ. Có khi đã đến giữa trưa mà ông chẳng để ý đến ăn cơm, mà chỉ tiếp đãi hiền sĩ. Vì thế, rất nhiều nhân sĩ đều đến quy phục ông. Ví như danh sĩ Bá Di, Thúc Tề, vì nghe danh Tây Bá rất kính trọng lão nhân, nên đều quy phục theo ông.
Tháng Sáu năm thứ 8 sau khi Tây Bá Cơ Xương xưng Vương kiến lập Chu quốc, ông đột nhiên bị bệnh. Sau năm ngày ông nằm trên giường bệnh, đã xảy ra một trận động đất. Phạm vi của trận động đất không vượt ra đến ngoài bốn vùng ngoại ô Đông, Tây, Nam, Bắc của kinh đô. Bách quan đều thỉnh cầu, nói rằng: “Chúng thần nghe nói rằng nguyên do của trận động đất là từ bậc Quân chủ mà ra. Hiện nay Đại Vương sinh bệnh nằm trên giường năm ngày rồi phát sinh động đất, hơn nữa phạm vi động đất cũng không vượt ra đến ngoài bốn vùng ngoại thành. Điều này khiến chúng thần rất sợ hãi, e rằng đó là điềm chẳng lành.” Vì vậy, bách quan đại thần đều cùng nhau thỉnh cầu Văn Vương di dời tai họa.
Văn Vương hỏi bách quan di dời như thế nào, có đại thần thưa: “Có thể huy động dân chúng, gia cố tường thành của kinh đô. Làm như vậy đại khái có thể tránh được tai họa”. Văn Vương nói: “Không thể làm như vậy. Thiên Thượng hiển hiện dị tượng là vì muốn trừng phạt người có tội. Nhất định là vì ta có tội, nên Thiên Thượng mới giáng tai họa để trừng phạt ta. Nay lại làm phiền bách tính đi gia cố tường thành, đó là tăng thêm tội lỗi của ta. Ta hẳn là phải trọng đức hành thiện để giải trừ tai họa.”
Ngay sau đó, Văn Vương hạ lệnh quản lý nghiêm khắc các mặt như lễ nghi, chi tiêu lương bổng của các quan, tình hình sử dụng các chế phẩm bằng da, những chi phí không cần thiết khi kết giao hữu hảo với các chư hầu; chỉnh đốn quan lại, chuẩn bị tơ lụa dùng làm tặng phẩm cầu hiền tài; ban bố cấp bậc tước vị và điền sản tương ứng để ban thưởng cho người có công lao.
Không lâu sau khi Văn Vương thực thi các biện pháp này, bệnh của ông đã khỏi, động đất cũng không còn. Chu Văn Vương trị vì được 51 năm mới qua đời, ông dùng đức trị quốc, lấy nhân từ cảm hóa dân chúng, giúp người dân khắp nước có phong thái quân tử, khiến cho hậu thế cảm phục ca tụng. Khổng Tử từng tán dương Chu Văn Vương là “Tam đại chi anh” (bậc anh hiền của ba triều đại Hạ, Thương, Chu), còn cảm khái rằng: “Úc úc hồ văn tai, ngô tòng chu!” (tạm dịch: Lễ nghi nhà Chu rực rỡ hưng thịnh biết bao, ta theo lễ nhà Chu!) Mạnh Tử tán tụng rằng, Thánh nhân như Văn Vương, năm trăm năm mới sinh ra một vị.
Tống Cảnh Công nói ba câu, Hỏa tinh lùi về sau chín mươi dặm
Tống Cảnh Công là vị Quốc Quân có thời gian trị vì lâu nhất trong lịch sử nước Tống vào cuối thời kỳ Xuân Thu, và có ảnh hưởng chính trị to lớn. Ông nỗ lực làm cho đất nước vươn lên hùng mạnh, đối ngoại kết giao hữu hảo với các quốc gia xung quanh, đối nội thực thi nền chính trị nhân từ. Trong thời gian ông trị vì có ghi chép lại thiên tượng “Huỳnh Hoặc thủ Tâm.” hay còn gọi là “Huỳnh Hoặc phạm Tâm.”
Năm 488 trước Công nguyên (TCN), nước Tào nổi dậy tấn công nước Tống. Qua năm sau, Tống Cảnh Công một lần xuất binh tiêu diệt xong nước Tào, chiếm lĩnh toàn bộ thổ địa, quốc lực của nước Tống ngày càng hùng mạnh.
Năm 480 TCN, xuất hiện hiện tượng thiên văn “Huỳnh Hoặc thủ Tâm,” chính là Hỏa tinh xuất hiện ở vị trí của Tâm Tú (chòm ba ngôi sao Tâm). Vào thời cổ đại, “Huỳnh Hoặc” là dùng để chỉ Hỏa tinh (sao Hỏa). Bởi vì Hỏa tinh sáng lấp lánh rực rỡ như lửa, quỹ đạo bất định khó phỏng đoán, do đó mới có tên là “Huỳnh Hoặc.” Thiên tượng này được cho là một điềm đại hung. Tống Cảnh Công rất sợ hãi, bèn triệu thái sử kiêm quan chiêm tinh là Tử Vi đến hỏi ngụ ý của loại thiên tượng này.
Tử Vi tâu với Cảnh Công rằng: “Hỏa tinh đại biểu cho sự trừng phạt từ Thiên Thượng, Tâm Tú là ranh giới của nước Tống. Tai họa sẽ ứng nghiệm trên thân Quốc vương, nhưng có thể chuyển dời họa này lên thân tể tướng.”
Ranh giới ở đây có nghĩa là khu vực đối ứng với các ngôi sao. Tống Cảnh Công nói: “Tể tướng là người cùng ta trị quốc, đem tai họa này chuyển lên thân ông ấy, thực là không tốt lành gì.”
Tử Vi lại thưa: “Vậy có thể đem tai họa này chuyển sang bách tính.” Cảnh Công nói: “Bách tính mất hết rồi, thì Quả nhân sẽ làm Quốc quân của ai đây? Nếu như vậy, thà rằng để một mình Quả nhân rời đi.”
Tử Vi lại thưa: “Tai họa cũng có thể chuyển sang mùa màng nông nghiệp.” Cảnh Công vẫn không đồng ý, nói: “Nếu mùa màng bị thiệt hại, trong dân chúng sẽ xảy ra nạn đói, nạn đói phát sinh thì người dân sẽ bị chết đói. Thân làm Quốc quân, mà lại sát hại bách tính để cầu mạng sống cho mình, vậy ai còn coi ta là Quốc quân nữa đây? Đây đã là số mệnh của Quả nhân, ngươi cũng không cần nói thêm gì nữa.”
Sau khi nghe Cảnh Công nói xong, Tử Vi ngay lập tức rời khỏi chỗ mình đang đứng, hướng về phương Bắc, cũng chính là hướng của Thiên Đế, bái lạy hai cái, sau đó tâu với Cảnh Công: “Hạ thần chúc mừng Đại Vương! Ông Trời tuy ở trên cao, nhưng vẫn có thể nghe thấy hết thảy trên mặt đất. Ba câu nói vừa rồi của Đại Vương, phù hợp đạo đức tối cao, Thượng Thiên nhất định sẽ ban thưởng cho ngài. Đêm nay Hỏa tinh sẽ lùi về phía sau ba xá [một tinh tú là một xá], ngài cũng có thể được kéo dài tuổi thọ thêm hai mươi mốt năm.”
Cảnh Công nghi hoặc, hỏi Tử Vi làm sao biết được điều này, Tử Vi thưa: “Ngài nói ba câu mỹ thiện, cho nên tất được ban thưởng ba lần. Bởi vậy, Hỏa tinh nhất định sẽ lùi về phía sau ba xá. Lùi về phía sau một xá cần đi qua bảy ngôi sao, mỗi ngôi sao đại biểu cho một năm, ba bảy hai mốt, cho nên thần nói ngài có thể kéo dài tuổi thọ thêm hai mươi mốt năm. Thần xin được chờ ở ngoài cung quan sát Hỏa tinh. Nếu Hỏa tinh không lùi về sau, thần nguyện chịu chết.” Cảnh Công bèn đồng ý.
Đêm đó, Hỏa tinh quả thực đã lùi về sau ba xá. Vào thời cổ đại, một chòm sao là một xá, ba xá chỉ vị trí của ba chòm sao.
***
Ba vị quân vương thời Tiên Tần khi đối mặt với tai họa đều có thể nhanh chóng tiêu trừ những tai họa đó. Cả ba vị đều lựa chọn tìm nguyên nhân ở bản thân mình, nhìn xem mình có chỗ nào không phù hợp với tiêu chuẩn của Thiên Thượng hay không, và càng thêm nỗ lực trọng đức hành thiện. Thiên Thượng nhận thấy họ đã phù hợp tiêu chuẩn, thì liền xóa trừ tai họa.
Không chỉ có các bậc Đế Vương thời Tiên Tần, mà các triều các đại hậu Tần cũng đều có không ít Hoàng đế không dám xem thường lời cảnh cáo từ Thiên Thượng. Ngoài việc tự vấn tự xét, họ còn hạ chiếu định tội chính mình. Truyền thống này kéo dài cho đến thời Thanh, cho thấy truyền thống kính sợ Thiên Đạo, lấy đức trị quốc của những bậc Đế vương cổ đại.
Tiểu Minh biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ