Khái quát về lịch sử nhiếp ảnh và sự chuyển đổi quan niệm nghệ thuật nhiếp ảnh (4)
Tiếp theo Phần 1; Phần 2; Phần 3
4. Hiệp hội Nhiếp ảnh ấn tượng
Phần trên đã nói về nhiếp ảnh ấn tượng, nhiếp ảnh gia trường phái này cơ điểm là làm yếu sự tập trung hoặc mở rộng hiệu ứng hình ảnh đặc biệt. Vì vậy, vào năm 1891, Hội nhiếp ảnh London đã có một sự bất đồng nghiêm trọng về khái niệm trong việc lựa chọn các tác phẩm dự Triển lãm ảnh Anh quốc. Các nhiếp ảnh gia bị ảnh hưởng phong cách ấn tượng của Emerson, tuân theo khái niệm thẩm mỹ ấn tượng của riêng mình, khởi phát “trường phái nhiếp ảnh ấn tượng” như một nghệ thuật nhiếp ảnh độc lập có tiếng nói riêng, và ở London đã thành lập một tổ chức nhiếp ảnh độc lập là Hiệp hội Nhiếp ảnh ấn tượng.
Hiệp hội Nhiếp ảnh ấn tượng đa số đều là người chuyển sang chủ nghĩa ấn tượng, họ thay đổi thẩm mỹ sáng tạo như là thay đổi những ý tưởng nghệ thuật, thay đổi điểm nhấn, thay đồi xu hướng, khuyến khích và hỗ trợ cho những biến dị này. Họ pha trộn giữa các hình thức khác nhau của nhiếp ảnh, chủ đề chụp ảnh, các giai tầng khác nhau, cũng như các thể loại ảnh khắp nơi trên thế giới. Và hơn nữa dùng những họa sĩ, nhà điêu khắc và nhân sĩ không trong giới nhiếp ảnh bình tuyển tác phẩm, đánh giá hình ảnh và tuyển chọn hội viên, các hội viên của quốc gia hợp thành một hiệp hội, quản lý lỏng lẻo. Chủ trương của trường phái này là cách nghĩ mới, không ngừng khuyến khích kết hợp với khoa học kỹ thuật mới mà phát minh, khuyến khích xuất hiện biến cách, các quan niệm mới ứng với sự thay đổi của xã hội. Vì vậy, hiệp hội này có rất nhiều người tham gia duy trì. Thuận theo kỹ thuật công nghiệp Anh quốc phát triển sang châu Âu và các quốc gia trên thế giới, hiệp hội nhiếp ảnh cũng từ Anh quốc mở rộng sang châu Âu và Mỹ quốc, trường phái nhiếp ảnh ấn tượng đã trở thành nghệ thuật nhiếp ảnh của quốc tế, đồng thời thúc đẩy sự phát triển nhiếp ảnh tân họa ý trên thế giới, song nó không phải là khái niệm nhiếp ảnh họa ý cổ điển ban đầu, nó chỉ là sự mở rộng của lưu phái nhiếp ảnh chủ nghĩa ấn tượng mà thôi. Cuộc cách mạng công nghiệp lần đầu tiên bắt đầu trên thế giới tại Anh quốc, và sau đó mở rộng ra thế giới, Anh quốc cũng là dẫn đầu trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật mới của nhiếp ảnh quốc tế trong 20 năm. Từ quan điểm của sự phát triển lịch sử, tính thẩm mỹ nhiếp ảnh cổ điển truyền thống ngày càng trở nên đơn giản hơn, hiệp hội nhiếp ảnh có nhiều thể loại mới, phong cách tạo hình sắc thái đã làm thay đổi thế giới.
Sau năm 1909, một nhiếp ảnh gia mạnh mẽ đã tách ra khỏi hiệp hội và một lần nữa khởi phát nhiếp ảnh salon, cơ điểm của nhiếp ảnh salon là hiện đại, để phát triển nghệ thuật nhiếp ảnh, lấy trường phái họa ý thời đầu mà tạo ra nghệ thuật đa phong cách sau này.
5. Trường phái cá nhân
Vào đầu thế kỷ 20, Hội viên Hiệp hội nhiếp ảnh Mỹ quốc Stiglitz đã rời ra khỏi hiệp hội. Nhiếp ảnh gia này đưa ra nhiều nghi vấn về bản chất về quan điểm nhiếp ảnh họa ý của hiệp hội nhiếp ảnh, sau đó nhiều người cũng rời khỏi, cũng tương tự như chủ nghĩa ly khai chính trị của xã hội đương thời, tại Mỹ quốc khởi phát trường phái nhiếp ảnh cá nhân, cố gắng thể hiện phong cách cá nhân độc lập, nghệ thuật nhiếp ảnh họa ý vẫn bị bỏ quên, còn đột phát ra thuyết “nhiếp ảnh đơn thuần”, phát huy đặc điểm riêng của bản thân, dùng ánh sáng làm hội họa, có khuynh hướng hình ảnh yêu cầu chân thật rõ ràng, ảnh điệu cần phong phú, tầng thứ cần phân minh.
Trường phái nhiếp ảnh cá nhân này tổ chức đầu tiên tại hành lang nhà số 5 đường 291 New York cuộc triển lãm đưa ra rất nhiều phong cách khác nhau để thúc đẩy sự phát triển lớn mạnh của nhiếp ảnh ấn tượng Mỹ quốc, cũng là trung tâm của nhiếp ảnh nghệ thuật thế giới, theo châu Âu mà chuyển hướng đến Mỹ quốc, nó đóng một vai trò quan trọng tại Hoa Kỳ từ thế kỷ 20, trở thành một nơi quan trọng trong nhiếp ảnh nghệ thuật thế giới, có tác dụng then chốt, từ quan niệm nghệ thuật nhiếp ảnh hội họa cổ điển đến chuyển biến tăng tính trực tiếp, tăng tính đơn giản. Tại đại bản doanh của Hiệp hội nhiếp ảnh Anh quốc cũng xuất hiện quan niệm tách ly, Davidson là người đã tách ra và thành lập tổ chức salon nhiếp ảnh, hiệp hội nhiếp ảnh tiếp đó được giải tán.
Sau đó, quan niệm con người không ngừng tiếp tục biến hóa theo thay đổi của xã hội, phái tách ly cũng có sự khác biệt về các quan niệm nghệ thuật. 1917 trường phái nhiếp ảnh tách ly tự động giải tán. Người ta tiến tới đa dạng hình thái ý thức hơn nữa.
6. Nhiếp ảnh kỷ thật (tả thật)
Nhiếp ảnh kỷ thật cũng có người gọi là nhiếp ảnh tả thật, nhiếp ảnh tin tức, bao gồm nhiếp ảnh phóng sự, báo chí, du lịch, đường phố…. Nhiếp ảnh tả thật của làng nhiếp ảnh đi theo chủ nghĩa tả thật của làng hội họa, hoàn toàn không phải là loại tả thực trong hội họa truyền thống. Họa sĩ sơn dầu tả thật của hội họa chân chính có nhận thức cảm thụ về kết cấu của sự vật, có kỹ pháp sơn dầu cổ điển nghiêm túc, tự có yêu cầu cách vẽ thích hợp nghiêm cẩn, tuân theo bố cục tinh tuyển, phát thảo miêu tả tinh tế đạt đến màu sắc các tầng tầng khác nhau, giúp họa diện cuối cùng đạt được sự chân thực tế nhị. Tại nội dung hình ảnh có thể vứt bỏ hay cộng thêm, biểu hiện ra tình tiết của một cố sự. Từ “tả thực” là một danh từ của người hiện đại.
Sự xuất hiện của nhiếp ảnh tả thật cũng là chụp ảnh trực tiếp cảm thụ như thật của người chụp đối với sự vật bên ngoài, cũng chỉ là ghi lại cảnh tượng bề mặt trực tiếp triển hiện cảm tính tự ngã đối với sự vật khách quan, có đặc điểm tự nhiên trung thực, tại hình ảnh có tính chuẩn xác máy móc.
Nhiếp ảnh thuở đầu, người ta không xem chụp ảnh trực tiếp là lĩnh vực nghệ thuật, có lẽ có nhiều người chụp tả thật ở thời kỳ đầu, đều là phác thảo sáng tác lẻ loi, không có tổ chức nào, tác phẩm cũng không được giới nghệ thuật lựa chọn, không được triển lãm salon tiếp thụ, không có địa vị huy hoàng nào của nhiếp ảnh nghệ thuật. Người ta thậm chí cho rằng chụp ảnh tả thật là đánh mất ý nghĩa thẩm mỹ cao của nhiếp ảnh. Cũng có người nói nhiếp ảnh tả thật là sự mở rộng nhất định của tư duy trường phái nhiếp ảnh chủ nghĩa tự nhiên trong lịch sử nhiếp ảnh. Trong những năm 70 của thế kỷ 19, ống kính nhiếp ảnh tả thực đã đi vào xã hội, đối tượng sinh hoạt, ghi chép hiện thực, có sức thu hút và tính kiến chứng mạnh mẽ, và dần dần chiếm cứ vị trí của nó trong lĩnh vực nghe nhìn mới. Vào đầu thế kỷ 20, nhiếp ảnh gia Pháp Ourenate đầu tiên đề xuất từ “kỷ thật”, hàm ý là chụp ảnh không chỉ truyền đạt tin tức, cũng có thể tiết lộ bề mặt nào đó của xã hội và nhân sinh. Đặc biệt trong lĩnh vực nhiếp ảnh tại Mỹ quốc, ghi chép chiến tranh, ghi lại trạng thái hiện tại của xã hội đã làm cho nhiếp ảnh Mỹ trở thành một loại nhiếp ảnh khác với châu Âu.
Tại nguyên lý thị giác, cách nhìn hình ảnh của con người thêm vào ý thức thẩm mỹ tự nhiên là không thể tránh khỏi, nhiếp ảnh kỷ thật tất nhiên không phải là nghệ thuật, con người truyền đạt tin tức trên nền tảng hình thức bề mặt, hình thức giúp tăng cường nội dung và lực thu hút, truyền đạt tin tức thêm chuẩn xác, vì vậy mà nhiếp ảnh kỷ thật người ta càng ngày càng coi trọng dùng hình thức có tính vật lý. Các giải thi ảnh kỷ thật đương đại có lực ảnh hưởng đến xã hội, như cuộc thi Nhiếp ảnh tin tức thế giới của Hà Lan là cuộc thi ở thể loại này, có thể chiến thắng nhận bằng thưởng của tổ chức sẽ được giới nghiên cứu bình luận, chủ đề sự kiện dùng làm hình ảnh trong nghiên cứu của họ, tuy nhiên vấn đề bố cục hình ảnh chỉ là vấn đề sơ cấp, cũng là càng ngày càng nhiều người cho là vấn đề bố cục hình ảnh liên quan đến đạo đức nhiếp ảnh, lý niệm văn hóa, phương thức tư duy, nắm chắc địa điểm thời gian, vấn đề đẳng cấp sáng tạo chủ quan. Do đó, hình ảnh đúng sai của báo chí thế giới thường rất nghiêm ngặt, mỗi công trình chiến thắng là kết quả của sự khôn ngoan của tác giả, là phải hợp lý, cũng có tập tính và quan hệ biện chứng, mọi người đã xem xét lịch sử nhiếp ảnh đến đây, kết quả là nhiếp ảnh tin tức đã thành một khái niệm lý thuyết của lịch sử nhiếp ảnh được đưa vào giảng dạy.
7. Chủ nghĩa Dada, trường phái nhiếp ảnh chủ nghĩa siêu thực và trừu tượng
Chủ nghĩa Dada, chủ nghĩa siêu thực và trừu tượng là lý niệm đạo đức xã hội biến dị đến cực đoan mà xuất hiện, tại lĩnh vực nhiếp ảnh cũng theo nhiếp ảnh cá nhân mà du nhập vào. Ba phong cách nhiếp ảnh này đều là hình thức khái niệm thẩm mỹ phản truyền thống của nhân loại, chúng đều là phi khách quan phi lý tính.
Đầu thế kỷ 20, Dada được sản sinh ở châu Âu, do trường phái văn hóa tâm lý suy đồi hành vi biến dị của thanh niên lưu vong, đặc điểm là đầy mâu thuẫn, các loại trói buộc, biểu tượng tư duy vô lý phi logic, ‘Dada’, có nghĩa là không có gì, không cảm thấy gì, không là gì, cuộc sống là hư vô hay thậm chí phản đạo đức. Bởi vì tính chất của nó là hủy diệt, cuối cùng đi tới tiêu vong.
Song xu hướng tư tưởng này đã được chấp nhận bởi những người tin rằng không có hy vọng, không có tương lai sau chiến tranh thế giới thứ nhất và nó đã xuất hiện trong lĩnh vực nghệ thuật. Nhiếp ảnh chịu ảnh hưởng theo trào lưu này. Trên biểu hiện của tác phẩm thường xuất hiện sự quái dị phản hiện thực, thậm chí quỷ dị hoặc hình ảnh xấu xí, chẳng hạn như: có đôi mắt trên cây, mây trên mặt đất, mặt nước xuất hiện mặt người bị khuếch đại hoặc địa ngục quỷ mị, vv… không có tính nối liền thông suốt, đặc trưng thị giác là vượt khỏi hiện thực, được gọi là nhiếp ảnh chủ nghĩa siêu thực, tác giả từ ảo tưởng mà truyền đạt cảm giác phóng túng mê loạn ma quái của bản thân.
Chủ nghĩa siêu thực tự gọi là một loại hoạt động vô ý thức của tinh thần. Không có kiểm soát, không cần lý tính, tự do tư tưởng hoạt động khi không có bất kỳ hiểu biết về đạo đức và thẩm mỹ nào. Theo quan điểm của họ, cảm giác chân thực nhất của con người chỉ có thể ở trong tiềm thức và mộng ảo. Do đó, hoạt động hạ ý thức của con người, đột phát linh cảm, tâm lý biến thái và thế giới mộng ảo là hình thức biểu hiện nghệ thuật của họ.
Chủ nghĩa trừu tượng xuất hiện tiếp sau chủ nghĩa siêu thực, đặc điểm là không có hình tượng, không có một biểu hiện vật tượng chỉnh thể nào, theo lối phóng đại một bộ phận cục bộ của vật thể, khoe khoang hoặc biến dạng nó. Hầu hết các tác giả đều có ý định trốn thoát khỏi thực tế, không làm chủ ý thức, sắc thái, khối, hình dáng, kết cấu mà truyền đạt các loại tâm cảnh của mình. Truy cầu cảm giác vô trật tự, phóng túng và khác thường của hư vô.
Ngoài những yếu tố né tránh thực tại, sự trừu tượng cũng bị ảnh hưởng bởi sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghiệp. Kiến trúc và hoàn cảnh của hiện đại hóa, đòi hỏi sự khái quát hơn, hình thức nghệ thuật tinh luyện và đơn giản hóa cũng nương theo tương ứng. Tốc độ của vận chuyển cơ khí, công suất và hiệu suất đối với thị giác mà nói thì là những khái niệm tương đối trừu tượng. Do đó, thời đại càng tăng khoa học kỹ thuật hóa, quan niệm thẩm mỹ của con người lại càng ngày càng xa hơn với khái niệm truyền thống.
Lê Trần biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Chánh Kiến Hoa ngữ