Cố vấn Trung Cộng phác thảo kế hoạch kiểm soát Biển Đông, thách thức sự thống trị của Hoa Kỳ ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương
Một giáo sư Trung Quốc nổi tiếng cho biết Trung Cộng đặt mục tiêu chiếm toàn bộ Biển Đông để cuối cùng kiểm soát các phần rộng lớn hơn của khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và thách thức vị thế thống trị của Hoa Kỳ trong khu vực này.
Các kế hoạch được minh họa bởi giáo sư này, người mà cũng cố vấn cho Đảng Cộng sản Trung Quốc (Trung Cộng), hoàn toàn trái ngược với những tuyên bố công khai của Trung Cộng về cách hành xử của họ trên tuyến đường hàng hải này.
Trung Cộng tiếp tục đưa ra các tuyên bố chủ quyền đối với gần như toàn bộ Biển Đông, bất chấp một phán quyết của tòa án quốc tế năm 2016 bác bỏ yêu sách về lãnh thổ của Bắc Kinh. Brunei, Malaysia, Philippines, Đài Loan, và Việt Nam đều có tuyên bố chủ quyền tranh chấp đối với các đảo san hô, các đảo và các bãi đá ngầm khác nhau trên tuyến đường hàng hải chiến lược này, vốn là một trong những tuyến đường vận chuyển nhộn nhịp nhất trên thế giới.
Nhà cầm quyền cộng sản này luôn tự đóng vai là bên không đi xâm lược trong các tranh chấp lãnh thổ. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Cộng Vương Nghị, trong một tuyên bố hồi tháng 09/2020, cho biết Trung Cộng “tuân theo chính sách theo đuổi quan hệ thân thiện và hữu nghị với các nước láng giềng” về vấn đề Biển Đông.
Nhưng trên thực tế, Trung Cộng đang áp dụng một chiến lược ngấm ngầm để nắm quyền kiểm soát toàn bộ tuyến đường hàng hải này; một khi đạt được mục tiêu này, họ có thể thách thức sự hiện diện của Hoa Kỳ ở Ấn Độ Dương và xâm lược Đài Loan, ông Kim Xán Vinh (Jin Canrong), giáo sư và là phó hiệu trưởng Trường Nghiên cứu Quốc tế tại Đại học Nhân dân Trung Quốc, cho biết trong một bài diễn văn hồi tháng 07/2016 được The Epoch Times phát hiện gần đây. Ông Kim cũng là một cố vấn nổi tiếng cho Trung Cộng.
Sách lược của Trung Cộng
Ông Kim khoe khoang về thành công của Trung Cộng trong việc giành được quyền kiểm soát Đá Vành Khăn và Bãi cạn Scarborough của Philippines lần lượt vào các năm 1995 và 2012.
“Sau khi chiếm [Đá Vành Khăn], chúng ta đã xua đuổi các ngư dân của Philippines. Thế nên, người dân Philippines đã rất khó chịu,” ông Kim nói. “Ngư dân của họ đã đánh cá ở đó hàng ngàn năm nay.”
Năm 1995, Bắc Kinh bắt đầu chiếm Đá Vành Khăn, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý của Philippines, bằng cách cho xây dựng các túp lều mà họ tuyên bố là nơi trú ẩn cho ngư dân Trung Quốc. Nỗ lực xây dựng này khiến Manila tức giận nhưng Hoa Thịnh Đốn đã không đứng về bên nào vào thời điểm đó.
“[Hoa Kỳ] không có quan điểm nào về giá trị pháp lý của các tuyên bố cạnh tranh chủ quyền đối với các đảo, các rạn san hô, đảo san hô và các vịnh khác nhau ở Biển Đông,” Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố vào năm 1995.
Trung Cộng đã xây dựng một hòn đảo nhân tạo lớn trên rạn san hô này. Tháng 02/2021, công ty công nghệ Simularity có trụ sở tại Hoa Kỳ đã công bố các hình ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc đang tiếp tục thực hiện các hoạt động xây dựng mới trên đảo nhân tạo này.
Tháng 04/2012, việc phát hiện tám tàu cá Trung Quốc neo đậu tại bãi cạn Scarborough, một bãi đá ngầm cách đảo chính Luzon của Philippines 120 hải lý, đã gây ra một cuộc tranh chấp hải quân giữa Philippines và Trung Quốc. Hoa Kỳ đã làm trung gian cho một thỏa thuận để xoa dịu căng thẳng, nhưng Bắc Kinh sau đó đã hủy thỏa thuận và ngăn chặn ngư dân Philippines đánh bắt cá trong khu vực này.
Ông Kim đã nhấn mạnh tính hiệu quả của việc sử dụng tàu đánh cá Trung Quốc để thúc đẩy những tham vọng của Trung Cộng trong khu vực. Ông nói, ngay cả khi Philippines quyết định giao cho Hoa Kỳ toàn bộ lãnh thổ của mình ở Biển Đông, các lực lượng của Hoa Kỳ sẽ không thể bảo vệ họ khỏi Trung Quốc. Hiện Philippines chiếm giữ ít nhất tám bãi đá ngầm, bãi cạn và đảo, thuộc quần đảo Trường Sa.
“Nếu Hoa Kỳ đóng một hàng không mẫu hạm ở đó, Trung Quốc có thể chỉ cần gửi 2,000 tàu đánh cá và bao vây hàng không mẫu hạm này. Hàng không mẫu hạm này không dám bắn vào các tàu đánh cá,” ông Kim nói.
Theo một bài báo gần đây trên tạp chí Military Review, một ấn phẩm của Quân đội Hoa Kỳ, thì một số ngư dân Trung Quốc được biết đến là làm việc với quân đội Trung Quốc hoặc với lực lượng bảo vệ bờ biển trong “các chiến dịch vùng xám.” Chiến tranh “vùng xám” là nói đến việc sử dụng các phương pháp và các tác nhân phi truyền thống để đạt được các mục tiêu trong chiến tranh, nhưng không gây ra xung đột vũ trang. Nếu bị buộc tội hỗ trợ quân đội Trung Quốc, những ngư dân này có thể che giấu bằng lời phủ nhận có vẻ hợp lý do “danh tính kép của họ vừa là quân nhân vừa là thủy thủ dân sự,” bài báo viết.
Bài báo chỉ ra sự bế tắc trên bãi cạn Scarborough là một trong số nhiều sự cố khi Trung Quốc sử dụng lực lượng dân quân để khẳng định các yêu sách hàng hải trên Biển Đông.
Trong một vụ việc diễn ra vào năm 2009, các tàu Trung Quốc bao gồm cả các tàu đánh cá đã quấy rối tàu hải giám USNS Impeccable của Hoa Kỳ ở Biển Đông.
Tuần trước, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Ned Price đã chỉ trích Trung Quốc trên Twitter sau khi hơn 200 tàu đánh cá Trung Quốc, được cho là thuộc lực lượng dân quân hàng hải, neo đậu tại Rạn san hô Whitsun, nằm trong vùng EEZ của Manila.
“Chúng tôi kêu gọi Bắc Kinh ngừng sử dụng lực lượng dân quân hàng hải để đe dọa và khiêu khích các bên khác, điều này làm suy yếu hòa bình và an ninh,” ông Price viết.
Hôm 04/04, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana cho biết sự hiện diện liên tiếp của các tàu Trung Quốc cho thấy ý định của Bắc Kinh muốn chiếm giữ các khu vực xa hơn của Biển Đông.
Chuỗi Ngọc trai
Việc đánh chiếm Biển Đông cũng rất quan trọng đối với kế hoạch của Trung Cộng nhằm thách thức ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, ông Kim nói.
“Nếu Hoa Kỳ mất quyền kiểm soát Ấn Độ Dương, nước này sẽ mất ảnh hưởng ở Trung Đông. Khi đó Hoa Kỳ sẽ mất đi vị trí số một trên thế giới,” ông cho biết.
“Chúng ta đang thực hiện chiến lược chuỗi ngọc trai ở phía bắc Ấn Độ Dương, với các cơ sở trải dài từ Thái Lan, Miến Điện, Bangladesh, Sri Lanka, và Pakistan. Nếu chúng ta hoàn thành chiến lược chuỗi này và sở hữu được Biển Đông, chúng ta có thể quét sạch căn cứ hải quân của Hoa Kỳ tại Diego Garcia chỉ trong vài phút.”
“Chuỗi ngọc trai” của Trung Quốc là một khái niệm lần đầu tiên được đưa ra trong một báo cáo năm 2005 của Ngũ Giác Đài, được sử dụng để mô tả cách Trung Quốc dự định gây ảnh hưởng tại Ấn Độ Dương, bằng cách tận dụng mạng lưới các vị trí thương mại và quân sự của Trung Quốc ở các nước Nam Á. Trong khi các quan chức Trung Cộng công khai phủ nhận việc Bắc Kinh theo đuổi một chiến lược như vậy ở Ấn Độ Dương, thì trong nhiều năm qua, Trung Cộng đã nắm quyền kiểm soát một số cảng biển ở Ấn Độ Dương dưới hình thức cho thuê.
Theo báo cáo năm 2018 của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI) có trụ sở tại Thụy Điển, các cảng này bao gồm: cảng Gwadar của Pakistan theo hợp đồng thuê 40 năm tính từ năm 2015; Cảng Kyaukpyu của Miến Điện với hợp đồng thuê 50 năm tính từ năm 2015; Cảng Obock của Djibouti với hợp đồng thuê 10 năm bắt đầu từ năm 2016; Cảng Feydhoo Finolhu của Maldives với hợp đồng thuê 50 năm tính từ năm 2017; và Cảng Hambantota của Sri Lanka theo hợp đồng thuê 99 năm kể từ năm 2017.
Quân đội Hoa Kỳ hiện sở hữu một cơ sở hỗ trợ hải quân tại Diego Garcia, một hòn đảo thuộc Quần đảo Chagos trong Lãnh thổ Ấn Độ Dương thuộc Anh (BIOT). Căn cứ hải quân này đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc chiến của Hoa Kỳ ở Iraq và Afghanistan, cũng như cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất.
Hiện tại, Mauritius, một thuộc địa cũ của Anh Quốc, và chính phủ Vương quốc Anh đang bị mắc kẹt trong tranh chấp lãnh thổ về BIOT. Vào tháng Sáu năm ngoái (2020), chính trị gia người Anh Daniel Kawczynski đã viết một bài báo cho tờ Daily Express của Anh Quốc, cảnh báo rằng nếu Vương quốc Anh để mất BIOT, đó sẽ là “một cuộc đảo chính quan trọng đối với Bắc Kinh.”
“Nếu BIOT được nhượng lại cho Mauritius, tôi không có một chút nghi ngờ nào về việc có thể chẳng bao lâu nữa trước khi các cơ sở hải quân tại Diego Garcia sẽ gia nhập ‘chuỗi ngọc trai’ của Tập Cận Bình – và trở thành mỏ neo cho một trật tự thế giới khác xa bây giờ,” ông Kawczynski viết.
Chiếm Đài Loan
Theo ông Kim, có được toàn quyền kiểm soát Biển Đông sẽ chỉ là bước đầu tiên. Ông cho biết với việc Hoa Kỳ bị loại khỏi vùng biển này thì mục tiêu kế đến sẽ là Đài Loan.
Đến lúc đó, ông Kim nói rằng chỉ riêng sự hiện diện quân sự lớn của Trung Quốc trong khu vực này đã có thể buộc Đài Loan đầu hàng mà không cần đổ máu.
“Nếu Đài Loan đầu hàng, Hoa Kỳ không có lý do gì để can thiệp,” ông Kim giải thích.
Trung Cộng coi Đài Loan là một tỉnh nổi loạn cần phải được thống nhất với đại lục, mặc dù nhà cầm quyền cộng sản này chưa bao giờ cai trị hòn đảo này. Trung Hoa Dân Quốc, tên chính thức của Đài Loan, trên thực tế là một nhà nước độc lập với các quan chức được bầu cử dân chủ, có quân đội, hiến pháp và tiền tệ của riêng mình.
Hoa Kỳ coi Đài Loan là đồng minh quan trọng ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và là nhà cung cấp quân sự chính cho hòn đảo này. Tháng trước, Đô đốc Philip Davidson, người đứng đầu Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, đã cảnh báo trong một phiên điều trần tại Thượng viện rằng Trung Cộng có thể xâm lược Đài Loan trong vòng “sáu năm tới.”
Với việc Trung Quốc có được Biển Đông và chiếm được Đài Loan, ông Kim nói rằng Hoa Thịnh Đốn sẽ coi Bắc Kinh là một “đối tác ngang hàng.”
“Là những đối tác ngang hàng, Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ có thể hợp tác trong nhiều vấn đề… điều này sẽ tốt cho cả thế giới,” ông Kim nói thêm.
Đa số lớn người dân Đài Loan từ chối việc thống nhất với đại lục.
Theo một cuộc thăm dò qua điện thoại trên 1,078 người dân địa phương vào tháng Ba thực hiện bởi Hội đồng Các vấn đề Đại lục của Đài Loan, một cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm về các vấn đề xuyên eo biển, chỉ 2.3% số người được hỏi cho biết họ muốn hợp nhất với đại lục càng sớm càng tốt, trong khi 5.3% số người nói rằng họ muốn duy trì hiện trạng và đoàn tụ với đất liền vào một thời điểm sau này.
Trong khi đó, 6.5% số người muốn Đài Loan chính thức tuyên bố độc lập càng sớm càng tốt; 25.1% số người muốn Đài Loan duy trì hiện trạng và tiến tới một quốc gia độc lập trong tương lai; và 27.3% số người muốn Đài Loan duy trì mãi mãi hiện trạng hiện nay.
Hơn 28% số người được hỏi nói rằng họ muốn giữ nguyên hiện trạng hiện nay và sau đó đưa ra quyết định về việc thống nhất hay độc lập sau này, trong khi đó 5.4% số người được hỏi còn lại đã không có ý kiến gì.
Do Frank Fang thực hiện
Hạo Văn biên dịch
Xem thêm: