Các nhà sản xuất vaccine nên từ bỏ quyền miễn trừ trách nhiệm đối với trẻ em
Đại dịch đã xảy ra 16 tháng và làm lũng đoạn những suy nghĩ, ý tưởng và sự đổi mới. Nhưng điều thu hút sự chú ý của chúng tôi gần đây là tuyên bố từ thống đốc bang New Jersey, nói rằng tất cả mọi người chích vaccine vào tháng 5 sẽ được uống bia miễn phí.
Nhìn bề ngoài thì nó có vẻ như vô thưởng vô phạt và ngớ ngẩn, nhưng xét sâu hơn thì chính sách này đáng bị chê trách và trực tiếp đi ngược lại đạo luật Nuremberg về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học.
Điều đáng lo ngại hơn là lời kêu gọi của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) và Tiến sĩ Anthony Fauci về việc chích ngừa cho trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên. Nếu được ban hành, chúng tôi đề nghị các nhà sản xuất vaccine phải chịu trách nhiệm về bất kỳ phản ứng có hại nào mà trẻ em phải chịu đựng trong tương lai.
Những vaccine này được chấp thuận Sử dụng khẩn cấp và không qua các bước kiểm soát nghiêm ngặt của quy trình đăng ký sản phẩm sinh. Do đó, các nhà sản xuất vaccine phải từ bỏ quyền miễn trừ trách nhiệm trong chủng ngừa đối với trẻ em. Chúng tôi tin rằng việc chích cho những đứa trẻ vốn gần như không có nguy cơ tử vong do COVID-19 này là hành vi phi đạo đức.
Điều khiển nỗi sợ hãi của người ta bằng cách phóng đại số ca nhiễm virus – theo ước tính từ 80% đến 90% – thông qua “ngưỡng chu kỳ nhiệt” (Ct) trong xét nghiệm RT- PCR đối với COVID-19 là một vấn đề. Ngưỡng chu kỳ khuyếch đại cần thiết để xét nghiệm RT- PCR có thể xác định chính xác tình trạng dương tính với virus là 24 chu kỳ. Tuy nhiên, hiện nay các phòng thí nghiệm đang sử dụng từ 40 đến 45 chu kỳ, vì thế mà bất kỳ mảnh virus và xác virus của bất kỳ RNA coronavirus không lây nhiễm cũng cho kết quả dương tính với SARS-CoV-2, điều này rõ ràng là sai.
Chắc chắn, trẻ em không là nguồn lây nhiễm hoặc dẫn đến đại dịch, và trên thực tế, trẻ em là bộ đệm hoặc lá chắn tự nhiên chống lại sự lây lan bùng phát của SARS-CoV-2.
Chiến dịch Operation Warp Speed
Chiến dịch Operation Warp Speed phát triển dựa trên nhiều ứng viên vaccine sử dụng các mẫu hình về liệu pháp gen. Vaccine được coi là một cách thoát khỏi đại dịch. Điều thú vị là một số ý kiến cho rằng vaccine đã có sẵn vài năm trước và đang chờ được sử dụng. Vaccine được nghiên cứu, phát triển, sản xuất và cung cấp cho người dân với tốc độ chóng mặt. Chiến dịch này dường như hướng đến việc chích ngừa cho toàn nhân loại, bao gồm cả trẻ em, đối tượng mà chúng tôi nhận thấy nguy cơ tối thiểu cho tới không có nguy cơ nhiễm virus và tác hại tiềm ẩn nghiêm trọng.
Dữ liệu của Hệ thống Báo cáo phản ứng bất lợi do vaccine (VAERS) cho thấy rằng các nguy cơ liên quan đến vaccine mRNA hiện tại, mặc dù vẫn còn rất nhỏ, nhưng cao hơn 20 lần đối với các biến cố bất lợi và tỉ lệ tử vong cao hơn gấp 200 lần so với vaccine cúm, dựa trên tính toán thô của chúng tôi.
Điều gì làm cho vaccine mRNA mới này trở nên độc đáo? Vaccine Pfizer và Moderna được phát triển tập trung vào mục tiêu duy nhất là protein gai trên bề mặt của SARS CoV-2 (protein S). Protein này gắn vào thụ thể ACE2 trên bề mặt của tế bào biểu mô, tế bào nội mô, tế bào mô phổi, và những tế bào khác, qua đó cho phép virus chèn RNA của nó vào trong [tế bào]. Quá trình này được hỗ trợ bởi furin, một protein của tế bào. Virus tạo ra nhiều bản sao bằng cách chiếm quyền điều khiển quá trình tổng hợp protein và “bộ máy” sao chép RNA bên trong tế bào bị nhiễm, cho phép virus nhân bản lên.
CDC VAERS báo cáo các tác hại
Như được suy luận ở trên, ngày càng có nhiều tín hiệu đáng lưu ý về những tác hại không lường trước được, mặc dù số lượng nhỏ, do vaccine mRNA mới gây ra. Nhiều đến mức một số loại vaccine đã bị loại bỏ ở một số quốc gia Âu Châu (Đan Mạch đã ban lệnh cấm sử dụng vaccine J&J) tại thời điểm viết bài này, vaccine AstraZeneca vẫn được phép lưu hành tại Hoa Kỳ.
Các tác hại trong thời gian ngắn như ngất xỉu và đau cánh tay và các triệu chứng nhẹ tự phục hồi khác đang được sử dụng để hợp lý hóa quan điểm rằng rủi ro liên quan đến vaccine mRNA so với tác hại do COVID-19 gây ra thì nhẹ hơn và chúng tôi sẽ không tranh luận về điều này. Tuy nhiên, người ta quan sát thấy tổn thương thần kinh không phục hồi hoặc tắc mạch do huyết khối đã xảy ra.
Tác hại lâu dài có thể xảy ra
Chúng ta phải biết rằng trong tương lai trẻ em có thể có tuổi thọ từ 50 đến 80 hoặc hơn 100 tuổi. Trong những trường hợp như vậy, liệu những tác hại lâu dài có tồn tại và mức độ nghiêm trọng của nó có trở thành một nguy cơ quan trọng hay không.
Ví dụ, người ta báo cáo rằng các chất mang tá dược (hạt nano lipid) được sử dụng trong vaccine mRNA cũng có đặc tính kháng nguyên và có thể gây ra các phản ứng miễn dịch dị ứng. Các hạt nano lipid này được tìm thấy, sau khi chích, trong các dây thần kinh, hệ thần kinh trung ương, gan và các cơ quan khác.
Trong khi phần lớn (70%) vaccine (mRNA + hạt nano lipid) vận chuyển trực tiếp đến các hạch bạch huyết ở nách, nơi các tế bào bạch huyết xử lý thông tin để sản xuất kháng thể, một lượng nhỏ được tìm thấy ở các bộ phận khác của cơ thể mà thông thường không “tìm thấy” những kháng nguyên liên quan đến chất bổ trợ này. Theo đó, hệ thống miễn dịch sẽ chỉ đạo các kháng thể chống lại những “kẻ xâm lược” này. Điều này có thể giải thích cho các báo cáo về rối loạn hệ thần kinh trung ương. Chúng tôi tin rằng dữ liệu an toàn dài hạn là cần thiết nhất đối với nguy cơ rất tiềm năng này.
Protein S gắn lên hệ thần kinh và hệ mạch máu, gây ra phản ứng viêm và tổn thương thành mạch như rối loạn đông máu, tương tự như các triệu chứng trong giai đoạn cuối khi nhiễm COVID-19. Dữ liệu bổ sung trong các tài liệu khoa học chỉ ra khả năng diễn tiến của các tác động lâu dài (hai đến ba năm) trên động mạch phổi dẫn đến sự dày lên của thành động mạch phổi do phản ứng viêm nhẹ dẫn đến đến một căn bệnh chết người gọi là tăng áp động mạch phổi. Căn bệnh này dẫn đến tử vong và từ khi khởi phát đến tử vong mất khoảng 2 đến 3 năm. Chúng tôi vẫn lo ngại về những nguy cơ này, đặc biệt là đối với trẻ em.
Một bài báo trên tạp chí Lancet vào tháng ba của tác giả Sunil Bhopal và đồng nghiệp cho biết, “Tính đến tháng 2 năm 2021, tại Hoa Kỳ, Anh, Ý, Đức, Tây Ban Nha, Pháp và Hàn Quốc, tỷ lệ tử vong do COVID-19 ở trẻ em rất hiếm, ở mức 0.17 trên 100,000 dân, chiếm 0,48% tổng số ca tử vong do tất cả các nguyên nhân trong một năm bình thường.”
Tại sao nhóm xã hội này của chúng ta và chính tương lai của nhân loại phải chịu những tác hại tiềm tàng chưa được biết đến này?
Những yếu tố nào thúc đẩy trẻ em đi chích ngừa?
Báo cáo về số tiền cổ tức lớn thu được từ sản xuất vaccine của các công ty dược phẩm buộc chúng ta phải dừng lại/suy xét/suy nghĩ/ suy ngẫm, chẳng hạn như Giám đốc điều hành của Pfizer nhận xét/bình luận rằng vaccine sẽ cung cấp một “đơn hàng ổn định” khi công ty công bố doanh thu từ vaccine trong một quý là 3.5 tỷ USD.
Trong một hệ thống thị trường công bằng, nơi đổi mới và thực nghiệm đem lại những lợi ích và rủi ro tương ứng, lợi nhuận tài chính có được phải chính đáng. Tuy nhiên, chúng tôi cảm thấy rằng điều này không đúng trong trường này.
Tiến sĩ Fauci một lần nữa để mắt đến dự án này vào tháng 9 năm 2021. Ông đề xuất rằng trẻ em từ 12 đến 17 tuổi sẽ được chích ngừa sau một cuộc điều tra nhanh về tác hại tức thì của vaccine được bình duyệt, và trẻ nhỏ hơn sẽ [được chích] vào đầu năm 2022 .
Chúng tôi cũng thắc mắc rằng tại sao người lớn đã khỏi bệnh cũng sẽ được chích ngừa. Ai cũng biết rằng những cá thể đã hồi phục sau nhiễm virus có khả năng miễn dịch mạnh mẽ kéo dài trong nhiều tháng. Mặc dù đây là một câu hỏi khó, nhưng chúng tôi tự hỏi liệu có phải dòng doanh thu “lâu dài” trong tương lai thúc đẩy nhu cầu đó thay vì động cơ sinh học hay không, với cái giá phải trả là tác hại tiềm tàng trong tương lai?
Chúng tôi tin rằng FDA và CDC nên dừng ngay kế hoạch chích ngừa cho trẻ nhỏ và thanh thiếu niên. Chúng tôi cảm thấy rằng các công ty sản xuất vaccine nên từ bỏ quyền quyền miễn trừ trách nhiệm vaccine, đặc biệt là đối với trẻ em. Trong trường hợp xảy ra các tổn hại đến trẻ em trong suốt cuộc đời của chúng, thì chúng phải được bồi thường cho tổn hại đó, chẳng hạn như hóa đơn y tế và / hoặc là chăm sóc dài hạn.
Bác sĩ Parvez Dara, M.D., MBA, là một bác sĩ chuyên khoa ung thư ở Toms River, New Jersey. Ông được cấp bằng y khoa của Đại học Y khoa King Edward và có hơn 20 năm hành nghề.
Tiến sĩ Paul Elias Alexander được đào tạo y học chuyên sâu dựa trên bằng chứng và dịch tễ học lâm sàng cũng như là một nhà phương pháp nghiên cứu. Ông tốt nghiệp đại học Oxford Anh, Đại học Toronto, McMaster ở Hamilton, Ontario, và một số khóa đào tạo dịch tễ học về khủng bố sinh học tại Johns Hopkins dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Donald Henderson (người đã diệt trừ bệnh đậu mùa).
Tiến sĩ Howard Tenenbaum, DDS, Ph.D., là tổng giám đốc nha khoa tại Mount Sinai, đồng thời là trưởng bộ phận nghiên cứu tại khoa nha của bệnh viện.
Tác giả: Bác sĩ Parvez Dara, Tiến sĩ Paul Elias Alexander, Tiến sĩ Howard Tenenbaum
Thu Ngân biên dịch
Xem thêm: