Thiên cổ anh hùng Tần Thủy Hoàng (P.2): Nhất thống thiên hạ
Thiên cổ anh hùng Tần Thủy Hoàng (P1): Kết thúc phân tranh
Chương 2: Tần Thủy Hoàng ra đời thiên hạ thống nhất, kế thừa và phát triển rực rỡ đại nghiệp của 6 bậc tiên vương, làm cho quốc gia hùng cường binh lực lớn mạnh
Sau khi Tần Hiếu Công kế vị vào năm 361 TCN, ông ra chiếu cầu hiền, trong một thời gian ngắn số lượng lớn hiền tài đều đã chảy về phía Tây. Những vị thừa tướng và các mưu sỹ trọng yếu mà nước Tần sử dụng hầu hết là ‘thượng khách’ đến từ các nước, chẳng hạn như Phạm Tuy, Lã Bất Vi, Lý Tư và những người khác. Mặc dù họ không được sử dụng ở đất nước của mình, nhưng họ đã trở danh tướng hoặc thượng khanh khi bước chân đến đất Tần.
Vào giữa thời Chiến Quốc, hai cường quốc Đông – Tây là Tần và Tề đối đầu nhau, thực lực quân Tần mạnh nhất. Các nước vì điều này mà luôn cảm thấy bất an, vì vậy họ đã áp dụng chiến lược ‘hợp tung’ của Tô Tần để đoàn kết chống lại nước Tần. Còn nước Tần vì để khắc chế lại chiến lược ‘hợp tung’ của các nước nên đã sử dụng sách lược ‘liên hoành’ của Trương Nghi.
Từ năm 318 TCN đến năm 269 TCN, Tần quốc và sáu nước khác đã trải qua một số trận chiến và ngày càng trở nên khốc liệt hơn, mặc dù sáu nước đã liên kết và tấn công nước Tần nhiều lần nhưng họ đều bất lực trước tiến trình đại thống nhất thiên hạ của nước Tần. Sau 6 đời tiên vương làm việc chăm chỉ, nước Tần đã trở nên thịnh vượng, dân giàu nước mạnh vì thế mà đã đặt nền móng hoàn hảo cho Tần Thủy Hoàng cuối cùng nhất thống thiên hạ.
2. Tần Thủy Hoàng ra đời, kiến lập Đại Tần
Vào tháng đầu tiên của năm 259 TCN, Tần Thủy Hoàng được sinh ra ở Hàm Đan của nước Triệu, ‘khi được sinh ra, đặt tên là Chính, lấy họ Triệu’ (trích trong ‘Sử ký-Tần Thủy Hoàng bản kỷ’). Trong ‘Đông Chu liệt quốc chí’ cũng đã mô tả như thế này: ‘Lúc vừa sinh ra, trong phòng tràn đầy ánh sáng đỏ, hàng trăm chú chim bay lượn như xem ngắm đứa trẻ đó, mới sinh ra đã thấy mắt mũi đoan chính chuẩn mực, trán vuông vức, đôi mắt sâu lắng, trong miệng đã mọc lơ thơ vài chiếc răng rồi, trên lưng có vảy rồng. Tiếng khóc rất lớn đến nỗi người đi trên các con phố thảy đều nghe thấy được.’
Lời tiên tri rằng Đại Tần sẽ sinh ra một vị Vương Chủ có thể nhất thống thiên hạ đã được tiên tri từ lâu. Ngay từ năm thứ tư của Tần Văn Công (762 TCN), người dân nước Tần đã xây dựng một thành thị tại nơi giao hội giữa sông Khiên (qian) và sông Vị. Một đêm, Tần Văn Công mơ thấy rắn vàng đang ôm trọn lấy thiên hạ, và miệng của nó nằm ở Phu Diễn. Sau khi tỉnh dậy Tần Văn Công hỏi Sử Đôn và Sử Đôn đã nói: “Điều ấy chính chỉ rõ rằng là thiên ý, Bệ hạ nên lập đền thờ sự kiện này.”
Vì vậy sau đó Văn Công cho người xây dựng Phu Chỉ (Phu Chỉ là tên của tế đàn), và sử dụng ba con vật để tế tự Bạch Đế. (Sử ký-Phong Thiền Thư). Vào năm Văn Công thứ 19, ông giành được “Trần Bảo”, trong “Phong thiền thư” có ghi như sau: “9 năm sau khi xây dựng Phú (nay là thuộc huyện Phú, Diên An tỉnh Thiểm Tây), Chỉ cho nơi tế tự Trời Đất của thời xưa), Tần Văn Công lấy được một vật giống như một tảng đá, đồng thời đem vào tế tự trong thành Ấp, Sơn Bắc, Trần Thương.”
Các vị Thần ở chỗ này có khi trải qua mấy năm cũng không đến, có lúc trong vòng một năm lại đến mấy lần, khi đến thường đến vào ban đêm, sáng như sao băng, từ hướng Đông Nam đến tụ hội thành miếu, giống như con gà trống, gáy rất to, thu hút tiếng chim trĩ về đêm, khi tế tự thường lấy đầu một con vật làm lễ, và cái đó sau được đặt tên là Trần Bảo. Theo ghi chép của “Phong Thiền thư”, “hòn đá này kết cấu vật chất như một viên đá thông thường, hình dạng giống như lá phổi”, cho nên cũng gọi tên là “Ngọc kê” hoặc “Thạch kê ”. Vì vậy “Trần Bảo từ ” cũng được gọi là “Bảo kê thần từ” ngày nay ở tỉnh Thiểm Tây có thành phố tên là Bảo Kê, cái tên đó là bắt nguồn từ câu chuyện này. Người nào giành được Trần Bảo sẽ có đại nghiệp làm bá chủ. Ngoài ra, Tần Văn Công đi săn bắn và săn được một con Rồng đen, mà màu đen tượng trưng cho nước, điều này cũng tiết lộ rằng nhà Tần (Thủy) sẽ thay thế (Hỏa) nhà Chu (Sử ký-Phong Thiền thư).
Vào năm Tân Hiến Công thứ 11 (năm 374 TCN), Hiến Công từng nhìn thấy Chu Liệt Vương và Thái Sử Đảm. Thái Sử Đảm nói với Hiến Công: “Quan hệ giữa nhà Chu với nước Tần lúc li lúc hợp, li 500 năm rồi lại hợp, khi hợp được 17 năm thì sẽ xuất hiện Bá Vương”. Nước Tần sẽ xuất hiện Bá Vương, cách nói người Tần sẽ thống nhất thiên hạ được bí mật lưu truyền trong các đời vua nhà Tần cũng từ đây mà ra. Ý trời đã như vậy rồi, sức người khó có thể kháng lại. Tần Thủy Hoàng ứng với vận mệnh đó mà ra đời, ông đã thống nhất đất nước và thành lập triều đại thống nhất đầu tiên của Trung Quốc chấn động thiên địa.
Tần Thủy Hoàng sau khi được sinh ra đã phải trải qua nhiều lần trắc trở trên con đường tìm về nước Tần, nhưng rồi cuối cùng thì đã về được với nước Tần. Lúc 13 tuổi được lên ngôi. “Năm mười ba tuổi, Trang Tương vương chết, Doanh Chính được lập làm Tần Vương. Lúc ấy, đất đai nhà Tần đã thu phục Tịnh Ba, Thục, Hán Trung, Việt Uyển và đất Dĩnh, cho đến Nam quận; phía Bắc thu Thượng quận về đến phía Đông, có Hà Đông, Thái Nguyên, Thượng Đảng quận; Đông đến 2 châu Huỳnh Dương và Diệt, thiết lập Tam Xuyên quận. Lã Bất Vi được phong làm Tướng Quốc, cấp cho mười vạn hộ, hiệu là Văn Tín Hầu. Ông đã ra sức chiêu hiền đãi sỹ, chiêu mời thượng khách khắp thiên hạ. Lý Tư làm Xá nhân, Mông Ngao, Vương Nghĩ, Tiêu Công làm tướng quân. Vương tuổi còn nhỏ, lúc đầu đã được phong Ủy Quốc Sự đại thần. (Sử ký – Tần Thủy Hoàng bản kỷ).
Trong 9 năm Tần Thủy Hoàng tự mình chấp chính này, bởi vì tuổi còn quá nhỏ, việc quốc gia đại sự quan trọng đều do Tướng quốc Lã Bất Vi nắm hết.
Lã Bất Vi tổng hợp các tư tưởng và ngôn luận của Bách gia làm thành Lã thị Xuân Thu. Sau khi Tần Thủy Hoàng trưởng thành cũng bắt đầu tự mình chấp chính, Lã Bất Vi bởi vì cũng đã cùng Lao Ái, Triệu Thái hậu làm ra nhiều chuyện xấu xa ô uế, nhiễu loạn hậu cung, cuối cùng sợ tội nên đã tự sát.
Năm 238 TCN, Tần Thủy Hoàng lúc đó đã 22 tuổi, tại cố đô Ung Thành khoác lên vương miện đăng cơ cũng từ đây ông chính thức tự mình chấp chính. Năm thứ 5, Ngao tướng quân công phá nước Ngụy, bình định Toan Táo, nước Yên, đất Hư, Trường Bình, Ung Khâu, Sơn Dương thành, đánh chiếm thu phục 20 thành, bài trí Đông quận, Đông lôi. Năm thứ 6, Hàn, Ngụy, Triệu, Vệ, Sở liên thủ đánh Tần, chiếm lấy Thọ Lăng. Quân Tần xuất binh, năm nước liền bãi binh rồi rút lui, quân Tần đánh nước Vệ, bức bách Đông quận, nhưng vẫn cho Vương của nước Vệ tại vị , chặn các ngọn núi để bảo vệ Hà Nội của nước Ngụy. Năm thứ 7, sao chổi đầu tiên xuất hiện ở phương Đông, và sau đó xuất hiện ở phương Bắc, đến tháng năm thì xuất hiện ở phương Tây. khi ấy Tướng quân Ngao chết. Quân Tần Lấy Công Long, đất Cô, Khánh Đô, xong rút quân về Công Cấp. Sau đó lại nhìn thấy sao chổi ở phương Tây 16 ngày. Lúc này Hạ Thái hậu chết. Năm thứ 8, tướng quân Vương Đệ Trường An Quân Thành Kiểu đi đánh nước Triệu, giết chết Truân Lưu, các binh lính quan lại đều bị xử trảm, sau đó dời dân tới Lâm Đào. Tần Thủy Hoàng trong vòng 10 năm, sau 1 năm tự mình chấp chính, đã nhanh chóng quả quyết xử lý nội loạn.
Tần Thủy Hoàng tăng tốc từng bước tiêu diệt 6 nước, không cho các quốc gia cơ hội liên hợp hành động, kế sách “Hợp tung” đã bị phá sản triệt để, tổng chiến lược tiêu diệt 6 nước của Tần Thủy Hoàng là công phá các nước gần đến tiến đánh các nước xa, tập trung lực lượng, tiêu diệt từng bộ phận. Trước tiên phía bắc thôn tính nước Triệu, ở giữa thì đoạt lấy nước Ngụy, phía nam lấy Hàn, rồi sau cùng mới tiến đến lấy luôn các nước Yên, Sở, Tề.
Tần Thủy Hoàng chọn lựa mục tiêu đầu tiên để đánh là nước Triệu. Lúc ấy, trong 6 nước thì nước Triệu có thực lực mạnh nhất, trên con đường Đại Tần nhất thống giang sơn thì nước Triệu là trở ngại lớn nhất. Thế nhưng nước Triệu lúc ấy có được danh tướng Lý Mục, Bàng Huyên, quân Tần nhiều lần tiến công nước Triệu đều bị quân nước Triệu đánh lui. Đồng thời khi dùng quân chủ lực tiến công nước Triệu thì nước Tần lại dùng sách lược xé nhỏ chân tay đối với nước Hàn. Năm 231 TCN, Nam Dương quận của nước Hàn trở thành “Giả thủ” (tức đại diện quận trưởng) họ Đằng, và họ Đằng đã đem đất đai cùng tất cả đất đai quy hàng nước Tần. Họ Đằng đó được Tần Thủy Hoàng bổ nhiệm làm chức Nội Sử, sau lại phái hắn xuất quân tiến công nước Hàn. Vào năm Tần Thủy Hoàng thứ 17 (năm 230 TCN) bắt được Hàn Vương An, nước Hàn diệt vong.
Tần Thủy Hoàng năm thứ 18 (năm 229 TCN), phái Đại tướng Vương Tiễn dẫn quân tiến công nước Triệu. Nước Triệu phái Lý Mục, Tư Mã Thượng dẫn binh chống cự, hai bên đôi co cầm cự lẫn nhau gần một năm. Sau Triệu vương tin vào sàm ngôn mà phái người thay thế Lý Mục đồng thời xử tử Lý Mục, và còn giết chết Tư Mã Thượng. Từ đó về sau, quân Tần như vào chỗ không người. Tần Thủy Hoàng năm thứ 19 (năm 228 TCN), quân Tần công phá Hàm Đan. Triệu vương đã dâng lên bản đồ toàn bộ nước Triệu rồi đầu hàng quân Tần. Nhưng công tử Gia lại chạy trốn tới Đại quận (nay thuộc huyện Uý tỉnh Hà Bắc), lợi dụng tên tuổi của Lý Mục, thu phục lòng người, tự lập làm vương. Quân Tần vào lúc Tần Thủy Hoàng năm thứ 25 (năm 222 TCN) tiêu diệt nước Yên và bắt toàn bộ làm tù binh. Đến đây, quân Tần thống nhất phương Bắc.
Tần Thủy Hoàng năm thứ 16 (năm 231 TCN), Cảnh Hôn vương nước Ngụy đứng trước uy lực lớn mạnh của nước Tần, đã chủ động dâng tặng Lệ Ấp cho quân Tần, để mong hoãn binh. Lúc này, Tần Thủy Hoàng đang bận rộn với việc diệt nước Triệu, nên không phân tán binh lực, liền tiếp nhận đất tặng cầu hòa của nước Ngụy để rồi nước Ngụy có thể kéo dài hơi tàn mấy năm nữa.
Tần Thủy Hoàng năm thứ 22 (năm 225 TCN), quân chủ lực của nước Tần xuôi về phương nam tấn công nước Sở, Tần Thủy Hoàng phái Vương Bí dẫn quân vây đánh tấn công Ngụy đô Đại Lương (nay thuộc Khai Phong Hà Nam). Quân Ngụy đóng chặt cửa thành, thủ vững không ra, quân Tần công mãi vẫn không hạ được thành. Lúc này, nước Tề thì lại án binh bất động, nước Ngụy bị cô lập không ai chi viện. Vương Bí thấy mưa to không ngớt nhiều ngày bèn lợi dụng nước sông Hoàng Hà, sông Biện để công thành. Tức thời ra lệnh binh lính quân Tần đào thành kênh nước, đem nước của 2 sông dẫn tới, cho chảy thẳng vào thành Đại Lương. Thành lũy của Đại Lương đều bị nước ngập lụt, lúc ấy Ngụy Vương Giả đành phải đầu hàng, nước Ngụy từ đây cũng bị diệt vong.
Nước Sở ở phương Nam, cương vực bao la, sản vật phong phú, nổi tiếng với giáp sĩ trăm vạn. Nhưng bên trong thì nội loạn không ngừng, quân vương đại thần tranh quyền đoạt lợi, đấu đá lẫn nhau. Tần Thủy Hoàng năm thứ 19 (tức năm 228 TCN), lúc ấy Sở U vương chết. Em trai cùng mẹ với U vương còn sống, nên được lập lên lấy tên là Ai Vương, nhưng chỉ tại vị được 2 tháng, sau đó bị người anh trai khác mẹ tên là Phụ Sô giết chết. Phụ Sô trở thành Sở vương. Tại vị được ba năm, Tần Thủy Hoàng năm thứ 21 (tức năm 226 TCN), Tần Thủy Hoàng chiểu theo lời khuyên của vị tướng trẻ Lý Tín, phái 20 vạn quân do Lý Tín dẫn xuôi về phương Nam tấn công nước Sở. Lý Tín có chút cao ngạo tự phụ, nên bị Hạng Yên của quân Sở đánh bại. Lúc này Tần Thủy Hoàng thân giá đi gặp lão tướng Vương Tiễn, cuối cùng thuyết phục được Vương Tiễn dẫn 60 vạn quân Tần tấn công nước Sở. Sau khi Vương Tiễn vào được đất Sở, thì liền trui rèn binh khí luyện tập binh lính, cứ đóng quân mãi không xuất binh, câu giờ để mài mòn ý chí của quân Sở, đây là chiến lược lấy thong thả mà thắng sự gấp gáp của địch, cầm cự nhau đến mấy năm liền, quân Tần cơ bản đã dần dần thích ứng được với tình hình đất Sở, sĩ khí dâng cao, thể lực dồi dào, đều muốn cùng Sở quân nhất quyết thư hùng. Đồng thời, quân nước Sở của Hạng Yên, ý chí chiến đấu đã bị đi xuống rồi, cho rằng quân Tần e sợ chiến đấu, lão tướng Vương Tiễn thì già rồi, chỉ cầu mong tự bảo vệ lấy bản thân, cộng thêm lương thảo không đủ, chuẩn bị mùa Đông về. Vương Tiễn chỉ đợi có như vậy liền hạ lệnh toàn quân xuất kích. Quân Tần có được sự anh dũng thiện chiến, liên tiếp chiến thắng, vừa xung trận đã phá tan quân chủ lực nước Sở, tiến quân thần tốc, giết chết thống soái quân Sở là Hạng Yên, bắt Sở vương Phụ Sô vừa mới được lập Sở vương không lâu làm tù binh. Đến đây, nước Sở diệt vong, lúc đó là năm thứ 24 Tần Thủy Hoàng (tức năm 223 TCN).
Khi đại quân của Vương Tiễn đến Tích Sơn (nay thuộc Vô Tích), lúc toàn quân chôn giấu nồi nấu cơm, khi đào đất lên đã phát hiện ra một bia cổ, trên đó viết rằng: “hữu tích binh, thiên hạ tranh, vô tích ninh, thiên hạ thanh”. Nghĩa là: Có Tích thì có khởi binh đao, thiên hạ chiến tranh, không Tích thì yên ổn, thiên hạ thái bình). Hỏi dân địa phương nơi đó thì biết được, núi này từ thời Chu Bình Vương khởi sự, là nơi từng sản xuất chì, vì thế mà lấy tên là Tích Sơn. Nhưng gần đây sản xuất ít dần, cũng không biết tấm bia này là người nào tạo ra. Vương Tiễn ai thán nói: “Tấm bia này đã hiển lộ, thiên hạ từ đây dần dần sẽ thái bình vậy. Há chẳng phải cổ nhân luôn cho rằng hết thảy đều có định số ư, cho nên chôn bia này để cảnh tỉnh hậu nhân hay sao? Sau này địa danh nơi đây đặt tên là Vô Tích.” Nay cái tên huyện Vô Tích, chính là bắt nguồn từ đây. Nước Tần nhất thống thiên hạ, từ sớm là Trời định như vậy rồi.
Trong khi diệt nước Triệu, quân Tần đã tiến quân nằm sát biên giới nước Yên rồi. Vua Hỷ của nước Yên lo sợ không dứt, bồn chồn từ sáng đến tối. Trước tình cảnh đó thái tử Đan tiếp nhận sự tiến cử của Điền Quang, để Kinh Kha mạo hiểm đi ám sát Tần Vương, tức là sự kiện Kinh Kha thích sát Tần Vương mà lịch sử đề cập, năm Tần Thủy Hoàng thứ 20 (tức năm 227 TCN). Hành động ám sát thất bại. Tần Thủy Hoàng năm thứ 22 (tức năm 225 TCN), Tần Thủy Hoàng ra lệnh cho hai cha con Vương Tiễn, Vương Bí xua quân đánh hạ kinh đô nước Yên là Kế Thành (nay là Bắc Kinh), Yến Vương Hỷ đã cùng thái tử Đan bỏ chạy lưu vong sang quận Liêu Đông. Lý Tín – tướng quân nước Tần dẫn theo mấy ngàn quân, cùng truy đuổi thái tử Đan đuổi đến sông Diễn Thủy. Thái tử Đan vì biết lặn xuống nước ẩn núp may mắn thoát chết trong gang tấc. Sau đó, Yến Vương Hỷ lại phái người giết chết thái tử Đan, đem thủ cấp dâng cho nước Tần, muốn dùng việc này để cầu được hòa hoãn chiến tranh, mong cầu giữ cho nước Yến không bị diệt vong. Sau khi Yến Vương Hỷ chạy trốn tới Liêu Đông, quân chủ lực của nước Tần tạm thời điều chỉnh tiến quân về phía Nam tấn công nước Sở. Tần Thủy Hoàng năm thứ 25 (tức năm 222 TCN), Vương Bí phụng mệnh thảo phạt các thế lực tàn dư của nước Yên tại Liêu Đông, bắt được Yến Vương Hỷ, nước Yên triệt để diệt vong. Cùng trong năm đó, mới vừa tiêu diệt đại quân nước Sở ở phương Nam, lại thừa thắng mà hàng phục được vua nước Việt, thiết lập quận Cối Kê. Toàn bộ lưu vực sông Trường Giang sát nhập vào bản đồ nước Tần.
Thủy Hoàng Đế năm thứ 26 (tức năm 221 TCN), Tần Thủy Hoàng mệnh lệnh Vương Bí tiến quân ồ ạt về phía Đông, tiến đánh nước Tề, nước Tề ở phía Đông là nước cuối cùng trong 6 nước. Từ thời Xuân Thu đến giữa thời Chiến quốc, nước Tề là một nước rất mạnh trong các nước ở Sơn Đông. Nhưng vào năm 284 TCN, Yên, Triệu, Hàn, Ngụy, Sở, 5 nước cùng tấn công nước Tề, nhất là tướng quân Nhạc Nghị của nước Yên đã càn quét qua nước Tề, khiến nước Tề thời điểm đó suýt nữa diệt vong. Từ đó về sau, nước Tề luôn vẫn không khôi phục được sức mạnh vốn có ban đầu nữa. Hiện tại Tề Vương Kiên là cái hạng người vô năng. Vương Bí xuôi về phía Nam thảo phạt nước Tề, thế như chẻ tre, tiến quân thần tốc mà đi vào thành Lâm Truy, Tề Vương Kiên và Hậu Thắng không đánh đấm gì mà tự đầu hàng quân Tần, nước Tề diệt vong. Đến đây thì nước Tần đã san bằng quần hùng, là đoạn tiến trình cuối cùng thống nhất 6 nước.
Tần Thủy Hoàng trong vòng vài chục năm đã chinh phục 6 nước, hoàn thành bá nghiệp nhất thống thiên hạ, trong quá trình đó chưa từng thấy có ghi chép nào về việc là chôn sống binh lính của bất kỳ nước nào, hoặc đồ sát một thành quách nào.v.v… mà Ông thật là một trong những vị vua nhân từ nhất lịch sử Trung Quốc, văn nhân đời sau nhiều người đem việc Tần Thủy Hoàng quét sạch 6 nước miêu tả thành “bạo quân”. Một số hậu duệ của 6 nước, ôm mối hận vong quốc, không nhớ ơn Tần Thủy Hoàng nhân từ tha mạng sống cho, mà ngược lại dùng từ “tàn bạo” như quân tặc khấu để ví với Tần Thủy Hoàng. Tần Thủy Hoàng thật sự không phải là vị Hoàng Đế như thế! Nếu như Tần Thủy Hoàng đúng như miêu tả là “tàn bạo”, thì hậu duệ của 6 nước sớm bị đuổi tận giết tuyệt rồi.
Bắt đầu khi 22 tuổi tự mình chấp chính, đến năm 39 tuổi xuất binh đánh bại nước Tề ở Sơn Đông, hoàn thành đại nghiệp lịch sử thống nhất Trung Quốc. Tần Thủy Hoàng chỉ trong thời gian ngắn ngủi 17 năm, nhanh chóng kết thúc cục diện hỗn chiến kéo dài mấy trăm năm thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc, đồng thời chế định ra và ban bố một loạt pháp lệnh và thi hành những điều có lợi cho thống nhất thiên hạ, xây dựng và hoàn thiện Hoàng Triều thống nhất đầu tiên của lịch sử Trung Quốc. Loại khí phách này của ông là không có Đế Vương nào so sánh được. Sử dụng sự quả cảm và tài trí của tiền nhân, sự đảm lược, dám nghĩ dám làm của chính bản thân mình, vừa hay ứng với thiên thời, thuận với lòng người, khiến cho bách tính hưởng được thái bình .
3. Chọn người hiền tài, thiện đãi từ đầu đến cuối không chút nghi ngờ
Tần Thủy Hoàng dám nghĩ dám làm biết khai thác những mặt tài năng của các tướng lĩnh quần thần, ông là người rất anh minh, cả đời cực kỳ coi trọng và biết sử dụng nhân tài. Chỉ qua ánh mắt nhìn là biết người có lòng can đảm và những người có khí chất không tầm thường là như thế nào, hơn nữa, một khi đã dùng thì tuyệt đối tín nhiệm với họ, trước sau vẹn toàn, ông rất chân thành khoan dung đối đãi với người khác, tầm nhìn vượt xa lên trên so với các bậc đế vương khác.
Tần Thủy Hoàng năm thứ 10 (tức năm 237 TCN), Trịnh Quốc tuân theo mệnh lệnh của Hàn Vương nước Hàn âm mưu mượn việc xây dựng công trình thủy lợi để làm tổn thất tài lực nhân lực của nước Tần bị bại lộ. Vì sự kiện này mà tôn thất đại thần của nước Tần là Tịch Cơ kiến nghị lên Tần Thủy Hoàng là nên trục xuất các “khách khanh” đang làm mưu sỹ tại nước Tần ra khỏi nước Tần để tránh các âm mưu của 6 nước. Tần Thủy Hoàng liền ban bố “Trục khách lệnh” (lệnh trục xuất khách khanh), mệnh lệnh tất cả các “Khách khanh” đang nhậm chức tại nước Tần phải tuân theo quy định của Lệnh mà rời khỏi nước Tần. Lý Tư trên đường rời khỏi nước Tần có viết một bức thư can gián dâng lên Tần Thủy Hoàng gọi là “Gián trục khách thư ”, Lý Tư nói rằng: những lời khuyên và mưu lược của “khách khanh” xưa này là cống hiến vì nước Tần, nếu lưu giữ các “khách khanh” đó lại thì hay hơn là trục xuất họ đi. Tần Thủy Hoàng sau khi đọc xong thư can gián của Lý Tư, lập tức thu hồi “trục khách lệnh”, đồng thời khôi phục lại chức vụ cho các “khách khanh” cho họ trở lại nước Tần nhậm chức. Không lâu sau đó còn bổ nhiệm Lý Tư làm Đình Úy. Dưới sự can gián của Lý Tư và Trịnh Quốc, Tần Thủy Hoàng đã cân nhắc lợi hại, lập tức tiếp nhận kiến nghị của họ, đặc xá cho Trịnh Quốc kẻ chủ mưu kế bào mòn nước Tần, đồng thời còn để Trịnh Quốc tiếp tục chủ trì công trình thủy lợi của Trịnh Quốc đang làm dang dở, dùng gần thời gian 10 năm cuối cùng cũng xây xong công trình thủy lợi lớn thứ 2 của nước Tần, Trịnh Quốc cự.
Cái đạo dùng người của Tần Thủy Hoàng là chọn người hiền tài, không phân biên giới hay quốc gia. Vì để có được các nhà quân sự trứ danh, vào lúc ấy ở tại nước Ngụy có một Uý Liễu đang làm tướng quân cho nước Triệu. Tần Thủy Hoàng liền cử Lý Tư đến nước Ngụy thuyết phục, cuối cùng đã thuyết phục Uý Liễu về với nước Tần, sau này trở thành một trong những mưu sỹ quan trọng trên con đường chinh phục 6 nước của Tần Thủy Hoàng. Có người đem sách của công tử Hàn Phi nước Hàn truyền vào nước Tần, khi Tần Thủy Hoàng đọc được các quyển sách tên là “Cô phẫn, ngũ đố” của Hàn Phi Tử, Thủy Hoàng tán thán nói: “Ô hô! Quả nhân gặp được người này, được kết giao với người ấy thì chết không có gì hối tiếc nữa vậy!” Sau đó, Tần Thủy Hoàng nghĩ trăm phương ngàn kế nghênh đón Hàn Phi Tử về với Tần quốc.
Trong trận chiến tiêu diệt nước Sở, Tần Thủy Hoàng đã thành công trong việc mời đại tướng quân Vương Tiễn đang ở nhà cáo bệnh tái xuất, và rồi Vương Tiễn làm đại thống soái cho đại quân nước Tần đi tiêu diệt nước Sở. Cuối cùng chiến thắng trong cuộc chinh phục này.
Bởi vì phạm pháp mà quan Huyện Tư Lại là Trình Mạc bị bắt giam vào tù, ở trong tù ông đã nghiên cứu cải cách văn tự, ông ấy đem các phần “gập tròn” của chữ Tiểu Triện mà Lý Tư sáng chế đổi thành “gập vuông”, cắt gọt các phần phức tạp và lược giản đi, trải qua mười năm cố gắng, cuối cùng tạo thành một loại thể chữ mới, tức thể chữ Lệ thư. Sau đó có người đem những chữ này thượng tấu dâng lên Tần Thủy Hoàng ,sau khi xem xong Tần Thủy Hoàng cho rằng thể chữ này rất thực dụng, liền đặc xá và trọng dụng Trình Mạc, cho ông đảm nhận chức Ngự Sử Tự.
Tần Thủy Hoàng đã tập hợp được một nhóm “Khách khanh” to lớn ở bên cạnh mình, trong đó bao gồm: Thừa tướng Lý Tư (đến từ nước Sở ), nhà quân sự Úy Liễu (Đến từ nước Ngụy), tướng quân Triệu Đà (đến từ nước Triệu), Thượng Khanh Cam La (là cháu của Cam Mậu, Cam Mậu đến từ nước Tề), tướng quân Mông Võ và con trai ông là 2 anh em tướng quân Mông Điền, Mông Nghị (Mông Võ là con của lão tướng nước Tần – Mông Ngao, Mông Ngao đến từ nước Tề), chuyên gia thuỷ lợi Trịnh Quốc (đến từ nước Hàn), nhà lý luận “ đế vương quyền mưu” – Hàn Phi (đến từ nước Hàn), khách khanh Mao Tiêu (đến từ nước Tề)… Những vị “khách khanh” này đều là những bậc trọng thần của Tần Thủy Hoàng để thống nhất giang sơn và trị lý quốc gia.
Tần Thủy Hoàng đối đãi với người khác cực kì tôn trọng, đối nhân xử thế khéo léo khôn ngoan, thấu tình đạt lý. Vì để tranh được Úy Liễu, Tần Thủy Hoàng không tiếc lấy cái tôn nghiêm của bậc đế vương, “hành lễ với y”, “ăn uống cùng y” (trích trong Sử ký – Tần Thủy Hoàng bản kỷ). Mặc dù Úy Liễu nhiều lần phê bình Tần Thủy Hoàng, Tần Thủy Hoàng cũng vờ như mắt điếc tai ngơ, vẫn tiếp tục yên tâm trọng dụng y.
Trịnh Quốc tuy là mật thám của kẻ địch, Tần Thủy Hoàng chẳng những không có giết y, ngược lại còn trọng dụng, để y chủ trì hoàn thành công trình thuỷ lợi nổi tiếng “Trịnh Quốc Cự”, gia tăng thực lực kinh tế cho nước Tần. Khi Kinh Kha hành thích Tần Thủy Hoàng, trợ thủ Cao Tiệm Ly giúp Kinh Kha hành thích Tần Thủy Hoàng thất bại đã chạy trốn vào trong dân gian, Tần Thủy Hoàng yêu quý âm nhạc tài hoa của y, bèn ra lệnh y làm nhạc sư cho triều đình.
Đặc điểm lớn nhất trong việc dùng người của Tần Thủy Hoàng là buông bỏ, đã dùng người thì không nghi ngờ họ, không can dự, mà đem quyền tự chủ cho các bậc tướng văn hay tướng võ cùng các đại thần khác. Ông đã đem 20 vạn đại quân giao cho Lý Tín, đem 60 vạn đại quân giao cho Vương Tiễn, đem 30 vạn đại quân giao cho Mông Điềm. Ông không tạo ra những chướng ngại để hạn chế quyền lực của họ, cũng không can dự quá trình chỉ huy tác chiến của các tướng quân. Lý Tín trẻ tuổi nóng tính, dẫn 20 vạn đại quân tấn công nước Sở, tuy bị lại thất bại, nhưng Tần Thủy Hoàng không có truy cứu trách nhiệm, mà vẫn tiếp tục tín nhiệm cậu ta, và cho cậu ta cùng tướng quân Vương Bí tấn công nước Yên, để cho cậu ấy lập được công lao bắt vua nước Yên.
Sau khi nhất thống giang sơn, Tần Thủy Hoàng tiếp tục ủy thác trách nhiệm đối với các công thần, vẫn trước sau thiện đãi vẹn toàn cùng nhân vật trọng yếu như Lý Tư, Vương Tiễn, Mông Điềm và các danh tướng khác, quan hệ tương đối hòa ái và thân mật. Điển hình nhất là mối quan hệ quân thần có thủy có chung kéo dài 30 năm giữa Tần Thủy Hoàng với Lý Tư.
Xem tiếp kỳ 3: Thiên cổ anh hùng Tần Thủy Hoàng (P.3): Minh chủ trị quốc
Tổ nghiên cứu Nhân vật thiên cổ anh hùng của văn hóa thần truyền huy hoàng 5000 năm
Học Hải biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ
Xem thêm: